1.1.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là:
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là loại trách nhiệm bồi thường
không phát sinh từ quan hệ hợp đồng;
Người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp của người khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
1.2.Điểm khác với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
a) Về căn cứ phát sinh:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
Thứ nhất: được xây dựng nên bởi các quy phạm điều chỉnh chế định hợp đồng.
Thứ hai: Chỉ tồn tại khi hợp đồng tồn tại, trách nhiệm này phát sinh khi xuất
hiên sự vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: phát sinh tồn tai một hành vi vi phạm pháp
luật dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng
không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại
và người thiệt hại.
b) Căn cứ xác định trách nhiệm:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc.
Chỉ cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự cũng có thể phát sinh trách nhiệm
dân sự. Bên vi phạm vân phải chịu trách nhiệm dù đã có hoặc chưa có thiệt hại
sảy ra khi bên kia vi phạm hợp đồng. Hai bên có thể thỏa thuận về những thiệt
hại có thể sảy ra và cách thức chịu trách nhiệm vi phạm hợp đồng.
Đối với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại gồm: hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại thực tế, có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thực tế, có lỗi.
c) Về hành vi vi phạm:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: hành vi này là hành vi vi phạm những cam
kết cụ thể, những nghĩa vụ mà hai bên ràng buộc nhau trong hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: hành vi này vi phạm những quy định của
pháp luật, những quy định do nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại . Ví dụ như:
vi phạm hành chính, vi phạm hình sự...
d) Phương thức thực hiện:
Bồi thường trong hợp đồng: các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường hay phạt
vi phạm kể từ khi giao kết hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: bên gây thiệt hại phải bồi thường kịp thời
và toàn bộ, thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, các bên trong quan hệ dân sự
có thể không biết nhau cũng như sự việc sảy ra làm phát sinh quan hệ dân sự
nên không thỏa thuận được. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường và
hình thức nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
e) Yếu tố lỗi:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Việc phân biệt lỗi cố ý hay vô ý cũng có
nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi phạm có thể chịu trách nhiệm
ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật quy định.
f) Về thời điểm phát sinh:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực và có
bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: thời điểm phát sinh kể từ thời điểm sảy ra
hành vi gây thiệt hại.
g) Về tính liên đới chịu trách nhiệm:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: chỉ áp dụng với các bên tham gia hợp đồng
và không thể áp dụng đối với người thứ ba.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Người chịu trách nhiệm là người người có
hành vi trái pháp luật, hoặc người khác như cha, mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ, pháp nhân, đối với người giám hộ của pháp nhân...
i) Mức bồi thường:
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: Mức bồi thường có thể thấp hơn hoặc cao
hơn mức thiệt hại sảy ra.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Bồi thường toàn bộ thiệt hại sảy ra, mức
bồi thường thiệt hại chỉ có thể được giảm trong những trường hợp đặc biệt ( Ví
dụ như: Người gây thiệt hại có lỗi cố ý hoặc vô ý và thiệt hại sảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ.)
2.Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng:
a) Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.
b) Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc
hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.
c) Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát
sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
3.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại nhứ thế nào:
Theo quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015, việc bồi thường thiệt hại
phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể
thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường đáp
ứng đồng thời hai điều kiện sau đây:
+ Do không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
+ Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường
so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có
khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại không còn
phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội,
sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù
hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng
lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù
hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người
gây thiệt hại…
Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Thứ năm, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt
hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế thiệt hại cho chính mình.
Theo đó, với mỗi loại thiệt hại ngoài hợp đồng cần bồi thường toàn bộ, kịp thời
các chi phí sau đây:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
+ Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
+ Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
+ Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thông thường, khi tài sản bị xâm phạm, việc xác định thiệt hại thường dễ dàng
hơn bởi vì sự thiệt hại về tài sản thì luôn luôn được định giá một cách cụ thể,
hơn nữa thiệt hại về tài sản phần lớn là sự mất mát, hư hỏng, hoặc tài sản bị hủy
hoại nên thường có số liệu cụ thể.
- Về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng
bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền thuê phương tiện đưa
người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y
tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền
máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ,
tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định
của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và
các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng
chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của
cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước
khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức
khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị
mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút đó.
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị
thiệt hại trong thời gian điều trị. nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp
lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
+ Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng
lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các
trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả
năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho
việc chăm sóc người bị thiệt hại.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm. Việc xác
định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề
nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…Mức bồi
thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết
do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ
tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà
nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
Khi xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, Tòa án phải dựa vào các chứng
từ do đương sự cung cấp để quyết định mức bồi thường. Điều này hoàn toàn
phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên có những khoản chi phí không
thể có hóa đơn như: khoản chi phí thuê xe máy đưa người đi cấp cứu thường
không có hóa đơn, chứng từ nên khi xác định Hội đồng xét xử thường chỉ dựa
vào thực tế chi phí của người bị thiệt hại để xác định.
- Về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước
khi chết và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị,
bao gồm các khoản chi phí như thiệt hại về sức khỏe nêu trên.
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các
vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang
và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo
thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn
uống, xây mộ, bốc mộ...
+ Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng trước khi chết. Những người được cấp dưỡng bao gồm: Vợ hoặc chồng
không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình; Con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình; Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có
tài sản để tự nuôi mình; Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia
(chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng; Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã
thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình;Anh,
chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã
thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng; Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có
khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình; Ông bà nội, ông bà ngoại
không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có
người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội,
ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm. Người
được bồi thường là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người bị thiệt hại. Trường hợp không có những người này thì
người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị
thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt
hại.
Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các
bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại
phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ,
nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời
điểm giải quyết bồi thường.
- Về thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm:
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín của
tổ chức bị xâm phạm, bao gồm:
+ Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho
việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có)
theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan
chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng;
chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của
người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục
thiệt hại (nếu có).
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm phải thực hiện những công
việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất
hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút đó.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm, khoản tiền này được bồi thường cho chính người bị xâm phạm. Việc xác
định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm (bằng lời
nói hay đăng trên báo viết hay báo hình…), hành vi xâm phạm, mức độ lan
truyền thông tin xúc phạm…Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần cho người bị xâm phạm trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa
thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn
cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
4. Những thiệt hại mà anh Quý phải bồi thường cho chị Hạnh gồm: tiền tinh
thần và sức khỏe, anh Quý phải trả nợ và bồi thường số tiền cho chị Hạnh theo
luật, và nuôi 2con chị tới đủ 18 tuổi.
5. Ngoài bồi thường tiền anh Quý sẽ đi tù.