luật dân sự 2
luật dân sự 2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại, các quan hệ dân sự không chỉ dừng lại ở các hợp
đồng đã ký kết mà còn mở rộng ra nhiều tình huống phát sinh trong đời sống
hàng ngày. Trong những tình huống này, khi quyền lợi của một cá nhân hoặc tổ
chức bị xâm phạm bởi hành vi vi phạm pháp luật của người khác, thì vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trở nên cực kỳ quan trọng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cơ chế pháp lý đảm bảo
người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Khác với trách
nhiệm hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh từ các hành vi vi phạm pháp
luật mà không cần có thỏa thuận trước đó. Nó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và duy trì trật tự xã hội.
Bài viết này sẽ tìm hiểu các khía cạnh pháp lý của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, bao gồm: các quy định chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây
ra, bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây
thiệt hại. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng
trong luật dân sự. Căn cứ theo quy định tại điều 275 Bộ luật dân sự năm
2015 và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại chương XX, Phần
thứ ba Bộ luật dân sự năm 2015 thì ta có thể thấy sự kiện gây thiệt hại do
hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn
phận, nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị hại.
Nhà làm Luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi
thường thỉệt hại ngoài hợp đồng với “nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái
pháp luật.”
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ
nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với
khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 Bộ luật dân sự “Nghĩa vụ
là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có
nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ
có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên
có quyền).”
- Từ những quy định này có thể nêu khái niệm về nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự: trong
đó một bên phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra do hành vi
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc do tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác do tài sản mà
mình chiếm hữu, quản lí gây ra thiệt hại cho người khác và bên
được nhận bồi thường theo mức độ đã thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án.
Trong quan hệ nghĩa vụ này, chủ thể tham gia có thể là cá nhân,
pháp nhân. Chủ thể là bị thiệt hại (người có quyền) và chủ thể gây
ra thiệt hại (người có nghĩa vụ) là các bên tham gia vào các quan hệ
đó. Bên có quyền cũng như bên có nghĩa vụ có thể một hoặc nhiều
người tham gia. Nghĩa vụ hoặc quyền của họ có thể là lien đới,
riêng rẽ hoặc theo phần tùy điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị
xâm hại.
Khách thể của quan hệ nghĩa vụ này luôn thể hiện dưới dạng “hành
động” phải thực hiện hành vi “bồi thường” cho người bị thiệt hại.
Cở sở phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là sự kiện “gây thiệt
hại do hành vi trái pháp luật” cho các chủ thể khác. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
nói riêng mang đặc tính của trách nhiệm dân sự. Đó là trách nhiệm
tài sản nhằm khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Tuy nhiên việc khôi
phục tình trạng tài sản bằng biện pháp bồi thường thiệt hại của
người gây ra thiệt hại không bao giờ cũng đem lại hậu quả như
mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau, người gây thiệt
hại không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thể “phục hồi
lại tình trạng tài sản ban đầu” như trước khi bị thiệt hại. Bởi vậy,
cần có các cơ chế và các hình thức khác để khắc phục tình trạng tài
sản của người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc
đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thực tuân
thủ theo pháp luật, bảo vệ tài sản, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này
luôn mang đến những bất lợi về tài sản của người gây thiệt hại để
bù đắp những thiệt hại mà họ đã gây ra cho chủ thể khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với trách
nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được áp
dụng với mọi cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhưng trách
nhiệm trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với các cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại.
2.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể được xác định đầy đủ
và chính xác khi xác định “toàn bộ thiệt hại” là bao nhiêu và trên cơ sở đó
ấn định mức bồi thường.
- Những thiệt hại phải bồi thường là thiệt hại do tài sản (điều 589 BLDS
năm 2015), thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (điều 590 BLDS năm
2015), thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (điều 591 BLDS năm 2015),
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (điều 592 BLDS
năm 2015)
a. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
- Căn cứ theo Điều 589 BLDS năm 2015:
“Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút
3. Chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
4. Thiệt hại kác do luật quy định”
- Thiệt hại trực tiếp:
thiệt hại do tài sản bị mất (tính đến tình trạng tài sản, thời giá thị
trường tại thời điểm tài sản bị mất); tài sản bị hủy hoại là những tài
sản không thể phục hồi chức năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là
những chi phí hợp lí, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính
năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại
Những chi phi phải bỏ ra bao gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại hoặc khác phục thiệt hại. Bồi thường thiệt hại trực tiếp về
tài sản có thể thực hiện bằng các cách như sau: bằng tiền, bằng
hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về nguyên tắc chung các
bên có thể thỏa thuận với nhau.
- Thiệt hại gián tiếp:
Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản (không thể khai thác tài
sản trong suốt thời gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại)
Những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu không có thiệt hại
xảy ra và những chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại
b. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
- Sức khỏe khó có thể xác định chính xác bằng một khoản tiền. Vì vậy bồi
thường thiệt hại về sức khỏe thực chất có ý nghĩa là đền bù một phần thiệt
hại về vật chất, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó
khăn do tai nạn gây nên và trong một số trường hợp chỉ có ý nghĩa là một
trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân
- Xác định thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
Chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
các chức năng bị mất, bị giảm sút (tiền thuốc, tiền viện phi và các
dịch vụ chữa bệnh khác,..) nếu do yêu cầu chăm só nạn nhân thì chi
phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của
cơ sở chữa bệnh.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị hại, nếu thu
nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng
loại.
Chi phí hợp lí và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất
khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì
thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lí cho việc chăm sóc người bị thiệt
hại
Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi
xảy ra tai nạn và sau khi điều trị
Tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu là một khái niệm
trừu tượng. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định
c. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
- Căn cứ theo Điều 590 BLDS năm 2015:
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại
bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần
mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định.”
d. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
- Căn cứ theo Điều 592 BLDS năm 2015:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo
quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối
đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
2.1.7. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm.
- Thời hạn được bồi thường là khoảng thời gian mà người được bồi thường
được hưởng do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
- Nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì khoản thu
nhập bị giảm sút của họ được bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả
năng lao động đến khi họ chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
- Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà họ có nghĩa
vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng quyền tiền cấp dưỡng từ thời
điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau
Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người
chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho
đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa 18
tuổi đã tham gia lao đọng và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân
Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng
tiền cấp dưỡng cho đến khi chết
- Căn cứ tại Điều 593 BLDS năm 2015.
2.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 22 BLHS 2015:
“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích
chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ
quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi
xâm phạm các lợi ích nói trên.”
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”
- Hành vi phòng vệ được coi là chính đáng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Phòng vệ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân.
Thiệt hại xảy ra cho chính người có hành vi trái pháp luật, xâm
pháp đến quyền và lợi ích hợp pháp kể trên.
Chỉ phòng vệ khi có hành vi của con người đang gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại mà cần phải ngăn chặn kịp thời để hậu quả
không xảy ra hoặc hạn chế được thiệt hại.
Biện pháp chống trả của người phòng vệ chính đáng là biện pháp
cần thiết.
“Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải
bồi thường cho người bị hại.
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.”
(Điều 594 BLDS 2015)
VD: Một người A bị tấn công bởi người B trong một cuộc tranh
cãi. Người A sử dụng một cây gậy để tự vệ và đánh trả lại người B.
Tuy nhiên, người A không chỉ đánh để ngăn chặn cuộc tấn công
mà còn tiếp tục đánh ngay cả khi người B đã ngừng tấn công và đã
bị khuất phục. Kết quả là người B bị thương nặng và phải nhập
viện điều trị. Trong trường hợp này, A sẽ phải bồi thường cho B vì
đã gây thiệt hại về sức khỏe do vượt quá giới hạn phòng về chính
đáng.
2.2.2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết:
- Căn cứ: Điều 171 BLDS 2015:
“Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành
động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.”
- Hành vi gây thiệt hại được coi là tình thế cấp thiết khi đủ các điều kiện
sau:
Có nguy cơ đe dọa trực tiếp đến những lợi ích chính đáng được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ (vật chất, tinh thần; cá nhân, tổ chức;
lợi ích công cộng hay lợi ích của Nhà nước).
Nguy cơ đe dọa phải có thực, đang diễn ra và chưa kết thúc, hoặc
sẽ xảy ra ngay tức khắc đe dọa trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Biện pháp gây thiệt hại là biện pháp duy nhất cuối cùng (chỉ áp
dụng đối với những chủ thể có khả năng thể hiện ý chí, khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình).
Với mục đích ngăn chặn, khắc phục thiệt hại cũng như bảo vệ lợi
ích lớn hơn, pháp luật yêu cầu thiệt hại xảy ra phải nhỏ hơn thiệt
hại cần ngăn chặn.
Ngoài ra hành động trong tình thế cấp thiết pháp luật không cho
phép dùng tính mạng, sức khỏe người khác để ngăn chặn thiệt hại
đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc.
Tuy nhiên, hành vi gây thiệt hại phù hợp với yêu cầu của tình thế
cấp thiết chủ thể gây hại sẽ không phải bồi thường cho người bị
thiệt hại vì hành vi gây hại trong trường hợp trên là phù hợp với
quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình cũng như của người khác:
Tại khoản 3 điều 171 BLDS 2015 quy định: “Gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết không phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối
với tài sản bị thiệt hại trong tình thế cấp thiết được bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 595 của Bộ luật này.”
“Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.” (Điều 595 BLDS 2015)
VD: Một vụ hỏa hoạn xảy ra trong khu dân cư A. Để ngăn ngọn
lửa lan rộng và gây thiệt hại lớn hơn, lực lượng cứu hỏa quyết định
phá dỡ một số ngôi nhà lân cận nhằm tạo ra một khoảng trống, hạn
chế đám cháy lan rộng. Tuy nhiên, việc phá dỡ này gây thiệt hại
lớn hơn mức cần thiết vì ngọn lửa không lan đến những ngôi nhà
đó. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt
quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thuộc về lực lượng cứu hỏa.
2.2.3. Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích:
- Khái niệm:
Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp
luật có liên quan vào 1 vị trí cơ quan nhà nước.
- Trách nhiệm bồi thường:
Căn cứ: Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước 201. Nhà
nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:
“1. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau
đây:
a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương
ứng quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này;
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây
thiệt hại.
2. Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
a) Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của
Luật này và có yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành
công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;
b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định
có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công
vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại;
c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có
hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt
hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi
hành án hình sự, thi hành án dân sự và có yêu cầu bồi thường trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.”
- Chi phí bồi thường khi người thi hành công vụ gây thiệt hại:
Người thi hành công có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có
hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội thì phải hoàn trả toàn
bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây hại nhưng chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng
lương cơ sở.
Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả
từ 3 đến 5 tháng lương của người đó, tối đa là 50% số tiền Nhà
nước đã bồi thường.
Trường hợp 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường thấp hơn 30%
tháng lương hoặc thấp hơn 3 tháng lương theo quy định nêu trên thi
hành công vụ phải hoàn trả 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường.
VD: Một cảnh sát giao thông đang truy đuổi A vi phạm luật giao
thông, và trong quá trình truy đuổi, cảnh sát này gây ra tai nạn giao
thông làm hư hỏng xe của B đi đường và gây thương tích cho B
này. Lỗi của người cảnh sát ở đây được xác định là lỗi vô ý gây
thiệt hại vì người cảnh sát không cố ý gây tai nạn cho B trong lúc
thực hiện nhiệm vụ vậy nên cảnh sát này sẽ phải hoàn trả từ 3 đến
5 tháng lương của người đó, tối đa là 50% số tiền Nhà nước đã bồi
thường là chi phí bồi thường khi gây thiệt hại.
2.2.6. Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra trong trường học, bệnh viên, pháp nhân trực tiếp quản lí:
- Căn cứ xác lập:
Điều 599 LBLDS 2015
“1. Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp
quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp
nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có
lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi
thường.”
- Trường hợp trách nhiệm bồi thường được xác định:
Trách nhiệm giữa nhà trường và cha mẹ;
Trách nhiệm giữa người giám hộ và bệnh viện khi để người dưới
15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại.
VD: Vì tích chất công việc không thể nấu cơm trưa nên chị A đã
gửi con ăn bán trú tại Trường tiểu học. Trong giờ ăn trưa không có
giáo viên quản lí nên B là con chị A đã nghịch ngợm khiến bút
đâm vào mặt làm C bị rách mặt. Vậy nên, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho cháu C thuộc về nhà trường bởi nhà trường đã có lỗi
trong việc quản lý học sinh khi không có giáo viên quản lý trong
giờ ăn trưa dẫn đến sự việc trên.
- Tuy nhiên trong trường hợp mà nhà trường, bệnh viện, pháp nhân khác
đang trực tiếp quản lí người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự: mà họ đã áp dụng những biện pháp để quản lí giám sát những người
này rất tốt, nhưng vẫn không kiểm soát được thiệt hại thì trách nhiệm bồi
thường được chuyển sang cho cha, mẹ hoặc người giám hộ.
VD: Một trường học tổ chức đi dã ngoại cho học sinh lớp 4. Trong
suốt chuyến đi nhà trường đã tuân thủ đầy đủ các quy định an toàn
và bố trí giáo viên giám sát học sinh. Tuy nhiên trong lúc chơi đùa
D đã vô tình đẩy ngã B khiến B bị gãy tay thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho B thuộc về cha mẹ hoặc người giám hộ của D
vì nhà trường không có lỗi trong việc quản lý học sinh nhưng vẫn
không ngăn chặn, kiểm soát được thiệt hại.
2.2.7. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra:
- Khái niệm:
Người của pháp nhân là những cá nhân đựợc xác lập với pháp nhân
hợp đồng lao động, thực hiện những công việc được pháp nhân
giao và hưởng chế độ của người lao động theo quy định của pháp
luật.
Người làm dịch vụ có quan hệ hợp đồng dịch vụ với bên thuê dịch
vụ, được chủ động và độc lập trong việc thực hiện công việc của
mình.
Người làm công là người thực hiện công việc theo sự chỉ đạo, sắp
xếp phân công của cá nhân, pháp nhân sử dụng người làm công,
không có sự độc lập trong quá trình thực hiện công việc.
Người học nghề là người đang theo học một nghề nghiệp có tính
chất chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu
khoa học- kĩ thuật... để hành nghề kiếm sống.
- Căn cứ xác lập:
Điều 600 BLDS 2015: Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt
hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện
công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người
học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật.
2.2.8. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường:
- Khái niệm:
Mồ mả là nơi chôn cất người chết đối tượng thuộc về mặt tâm linh.
- Quy định bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả:
Căn cứ: Điều 607 BLDS 2015
“1. Cá nhân, pháp nhân xâm phạm đến mồ mả của người khác phải bồi
thường thiệt hại.
2. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc
phục thiệt hại.
3. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả của người
khác bị xâm phạm phải bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều này và
một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân
thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có những người
này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền
này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm
phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
VD: Một công ty xây dựng A tiến hành đào bới để thi công dự án
mà không biết rằng khu vực này là một nghĩa trang. Trong quá
trình thi công, họ đã vô tình đào phải và làm hư hại một số ngôi
mộ. Vì người thi công là người của công ty A vậy nên đây là trách
nhiệm bồi thường do người của pháp nhân gây ra và pháp nhân nà
sẽ phải bồi thường theo quy ddinhj của luật.
2.2.11. Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng:
- Khái niệm:
Người tiêu dùng là cá nhân, tổ chức thực hiện việc mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của các cá
nhân, tổ chức đó.
VD: A mua bánh bao của cửa hàng B và sau khi ăn, A bị ngộ độc
thực phẩm. A có thể yêu cầu chủ quản lí của cửa hàng B bồi
thường chi phí y tế và các chi phí phát sinh khác do việc bị ngộ độc
gây ra.
- Nguyên tắc:
Trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất không tuân thủ các điều kiện kĩ
thuật, điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn sản xuất...
đối với sản phẩm của mình.
Trách nhiệm thuộc về nhà phân phối khi nhà sản xuất đã đáp ứng
được hoàn toàn những điều kiện về tiêu chuẩn, kĩ thuật. Tuy nhiên,
nhà phân phối đã không thực hiện bảo quản sản phẩm đúng yêu
cầu khiến sản phẩm bị hư hỏng, giảm sút chất lượng.
Trách nhiệm cũng thuộc về nhà nhập khẩu, hoặc những cơ quan có
liên quan đến quá trình nhập khẩu khi thực hiện những hành vi trái
với pháp luật, làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm ban
đầu.
- Giải pháp:
Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi
trường, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình
cũng như người khác.
Khi phát hiện hàng hóa có dấu hiệu không an toàn, gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây hại đến tính mạng thì cần thông tin cho cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan.
2.3.1. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo
Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015:
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải
cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động,
vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo
quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
quy định của pháp luật.
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ
moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô
hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các
loại xe tương tự theo quy định tại khoản 18 Điều 3 của Luật Giao
thông đường bộ năm 2008 là nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau
đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
VD: Khu vực có biển báo là nguồn điện cao thế nguy hiểm chết
người nhưng A vẫn vào trộm đồ và bị điện giật chết là trường hợp
hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
VD: A đang lái xe ô tô theo đúng Luật Giao thông đường bộ, B lái
xe máy theo hướng ngược chiều với A và lấn làn đường của A. Để
tránh gây tai nạn cho B và không còn cách nào khác nên A đã lái
xe va vào chiếc xe máy thuộc sở hữu của C đang đậu trên lề đường
gây thiệt hại cho C. Trường hợp này là tình thế cấp thiết, A không
phải bồi thường thiệt hại cho C mà B phải bồi thường thiệt hại cho
C vì B đã gây ra tình thế cấp thiết theo khoản 2 Điều 595 của Bộ
luật Dân sự.
4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
VD: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô nhưng vẫn
giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở
hữu phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
2.3.2. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
- Trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo Điều 603 Bộ luật
Dân sự năm 2015:
1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho
người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường
thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt
hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu
người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt
hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường;
khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc
để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi
thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ
sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội.
VD: A dắt chó đi dạo mà không có dây xích và rọ mõm. Chó của
anh A bất ngờ tấn công và cắn chị B, người đi bộ gần đó. Chị B bị
thương, phải nhập viện để điều trị.
Chi phí điều trị:
Tiền khám và chữa trị ban đầu: ~ 1.500.000 triệu đồng
Tiền thuốc và chi phí điều trị: ~2.000.000 triệu đồng
Chi phí đi lại để điều trị: ~500.000 triệu đồng
Tổng: ~ 4.000.000 triệu đồng
Thiệt hại do mất thu nhập:
Chị B không thể đi làm trong thời gian điều trị: ~10.000.000 triệu
đồng
Thiệt hại tinh thần:
Chị B bị kích động về tinh thần khi bị chó của anh A tấn công và
cắn từ đó có thể gây ám ảnh về tinh thần cho chị A.
Chị B không thể đi làm trong thời gian điều trị cũng gây thiệt hại
về vật chất khi chỉ ở nhà điều trị không kiếm được tiền trang trải
cuộc sống và bị thương do bị chó cắn.
2.3.3. Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra
2.3.4. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.
- Trường hợp bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây ra theo Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa,
công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác.
VD: Trong quá trình phá bỏ công trình cũ để xây dựng mới, chị A
không thực hiện đúng biện pháp, dẫn đến tường nhà chị B kế bên
bị vỡ nứt và hư hỏng.
Thiệt hại về tài sản: Tường nhà chị B bị vỡ nứt và hư hỏng
Chi phí sửa chữa tường nhà: ~10.000.000 triệu đồng
Chi phí sơn lại tường để khôi phục trạng thái ban đầu: ~2.000.000
triệu đồng.
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một phần quan trọng
của hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức trong xã hội. Nó không chỉ giúp đảm bảo rằng những người gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm và bồi thường, mà còn góp phần duy trì trật tự và
công bằng trong xã hội.
Qua việc tìm hiểu các quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra, bồi thường thiệt hại
do tài sản gây ra. chúng ta có được cái nhìn toàn diện về chủ đề này. Điều này
không chỉ giúp bảo vệ bản thân khi gặp phải tình huống bị xâm phạm mà còn
nâng cao ý thức về trách nhiệm đối với hành vi của mình, từ đó góp phần xây
dựng một xã hội văn minh và pháp quyền.
Hiểu rõ và áp dụng đúng các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng sẽ giúp mỗi cá nhân và tổ chức không chỉ tự bảo vệ quyền
lợi của mình mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự tôn trọng pháp luật,
góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng.