0% found this document useful (0 votes)
33 views28 pages

luật dân sự 2

Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
33 views28 pages

luật dân sự 2

Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
You are on page 1/ 28

PHẦN 1.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong xã hội hiện đại, các quan hệ dân sự không chỉ dừng lại ở các hợp
đồng đã ký kết mà còn mở rộng ra nhiều tình huống phát sinh trong đời sống
hàng ngày. Trong những tình huống này, khi quyền lợi của một cá nhân hoặc tổ
chức bị xâm phạm bởi hành vi vi phạm pháp luật của người khác, thì vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trở nên cực kỳ quan trọng.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cơ chế pháp lý đảm bảo
người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Khác với trách
nhiệm hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh từ các hành vi vi phạm pháp
luật mà không cần có thỏa thuận trước đó. Nó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và duy trì trật tự xã hội.

Bài viết này sẽ tìm hiểu các khía cạnh pháp lý của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, bao gồm: các quy định chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây
ra, bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

2.1.1. Khái niệm

- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây
thiệt hại. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng
trong luật dân sự. Căn cứ theo quy định tại điều 275 Bộ luật dân sự năm
2015 và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại chương XX, Phần
thứ ba Bộ luật dân sự năm 2015 thì ta có thể thấy sự kiện gây thiệt hại do
hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn
phận, nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị hại.
Nhà làm Luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi
thường thỉệt hại ngoài hợp đồng với “nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái
pháp luật.”
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ
nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với
khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 Bộ luật dân sự “Nghĩa vụ
là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có
nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ
có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên
có quyền).”
- Từ những quy định này có thể nêu khái niệm về nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại như sau:
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự: trong
đó một bên phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra do hành vi
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc do tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác do tài sản mà
mình chiếm hữu, quản lí gây ra thiệt hại cho người khác và bên
được nhận bồi thường theo mức độ đã thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án.
 Trong quan hệ nghĩa vụ này, chủ thể tham gia có thể là cá nhân,
pháp nhân. Chủ thể là bị thiệt hại (người có quyền) và chủ thể gây
ra thiệt hại (người có nghĩa vụ) là các bên tham gia vào các quan hệ
đó. Bên có quyền cũng như bên có nghĩa vụ có thể một hoặc nhiều
người tham gia. Nghĩa vụ hoặc quyền của họ có thể là lien đới,
riêng rẽ hoặc theo phần tùy điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị
xâm hại.
 Khách thể của quan hệ nghĩa vụ này luôn thể hiện dưới dạng “hành
động” phải thực hiện hành vi “bồi thường” cho người bị thiệt hại.
Cở sở phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là sự kiện “gây thiệt
hại do hành vi trái pháp luật” cho các chủ thể khác. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
 Trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
nói riêng mang đặc tính của trách nhiệm dân sự. Đó là trách nhiệm
tài sản nhằm khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Tuy nhiên việc khôi
phục tình trạng tài sản bằng biện pháp bồi thường thiệt hại của
người gây ra thiệt hại không bao giờ cũng đem lại hậu quả như
mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau, người gây thiệt
hại không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thể “phục hồi
lại tình trạng tài sản ban đầu” như trước khi bị thiệt hại. Bởi vậy,
cần có các cơ chế và các hình thức khác để khắc phục tình trạng tài
sản của người bị thiệt hại.
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc
đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thực tuân
thủ theo pháp luật, bảo vệ tài sản, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này
luôn mang đến những bất lợi về tài sản của người gây thiệt hại để
bù đắp những thiệt hại mà họ đã gây ra cho chủ thể khác.
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với trách
nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được áp
dụng với mọi cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhưng trách
nhiệm trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với các cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại.
2.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

a. Có thiệt hại thực tế xảy ra.


- Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bởi mục
đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục, bù đắp những tổn thất
thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, do đó không có thiệt hại thì
không thể đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác.
- Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức.
- Thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại không phải bồi thường. Thiệt hại
thực tế xảy ra bao gồm: thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần.
 Thiệt hại về vật chất:
 Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút
tài sản, những chi phí ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, thay
thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công
dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người
bị thiệt hại.
 Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về
vật chất bao gồm các chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm
sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị
giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
 Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại bao gồm
chi phí hợp lí để ngăn chăn, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm hại.
 Tổn thất về tinh thần:
 Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng gồm rất nhiều
vấn đề và chỉ tồn tại đối với xã hội loại người, về nguyên
tắc, không thể trị giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang
giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được. Nhưng
với mục đích an ủi động viên đối với người bị thiệt hại về
tinh thần, cũg như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn
người có hành vi trái pháp luật.
 Căn cứ theo khoản 2 điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 “
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức
khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác
để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức
bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần
mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
b. Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật hoặc có sự kiện tài sản gây
thiệt hại trái pháp luật.
- Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe. Danh dự, uy tín, tài sản là
một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn
trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ
hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó (căn cứ vào khoản 1
điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 “Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”)
- Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ
thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
- Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện
hành vi theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực
hiện các hành vi đó (Ví dụ: lính cứu hỏa chữa cháy thì cần phá nhà dân
xung quanh đám cháy trong trường hợp cần thiết). Trong trường hợp này
người gây thiệt hại không phải bồi thường. Người gây thiệt hại cũng
không phải bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình
thế cấp thiết hoặc có sự đồng ý của người bị hại (điều 594; khoản 1 điều
595 Bộ luật dân sự năm 2015). Nhưng nếu vượt qua giới hạn phòng vệ
chính đáng, vượt qua yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây ra thiệt
hại vẫn phải bồi thường thiệt hại.
- Việc xác định tính trái luật của hành vi hoặc hoạt động của tài sản phụ
thuộc vào việc đối tượng bị xâm hại có được bảo vệ hay không. Do đó,
khi có hành vi hoặc hoạt động của tài sản bị xâm phạm đến các đối tượng
được luật bảo vệ thì hành vi đó hoặc hoạt động của tài sản đó sẽ được coi
là trái pháp luật. Khi đó, người thực hiện hành vi, chủ sở hữu tài sản hoặc
các chủ thể khác có liên quan sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
c. Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi của con người hoặc hoạt động
của tài sản và thiệt hại xảy ra.
- Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại, hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Căn cứ theo khoản 1
điều 584 Bộ luật hình sự năm 2015 “Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
- Xác định mối quan hệ nhân quả đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do tài sản gây ra thì đó là mối quan hệ nhân quả giữa hoạt
động của tài sản với thiệt hại xảy ra; theo đó, sự tác động của tài sản là
nguyên nhân có tính quyết định dẫn đến thiệt hại xảy ra.
- Nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó, cần phải xem xét, phân tích, đánh
giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thẩn trọng, khách quan và toàn
diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân,
xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.
- Trước đây khi xác định các điều kiện (căn cứ) làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải nhận biết 4 điều kiện (có
thiệt hại xảy ra; có hành vi gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra; có lỗi của người thực hiện hành
vi gây thiệt hại) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới phát sinh. Tuy
nhiên, không phải trường hợp nào cũng cần phải đầy đủ 4 điều kiện này
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được phát sinh, mà còn có những
trường hợp trách nhiệm bồi thường phát sinh ngay cả khi không có yếu tố
lỗi.
- Ở khoản 1 điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người nào do lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường.” Thì ở khoản 1 điều 584 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định lại rằng “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác.” Ở Bộ luật dân dự 2005, yếu
tố lỗi là một trong những điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường
ngoài hợp đồng còn ở Bộ luật dân sự năm 2015, hành vi gây thiệt hại lại
được chú trọng và nhắm rõ. Đây là một sự thay đổi hợp lí, bởi vì lỗi luôn
gắn với hành vi trái pháp luật, và không thể có lỗi tồn tại ngoài hành vi
trái pháp luật của một chủ thể.
- Đồng thời, lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng là lỗi suy đoán. Tức là không
cần phải chứng minh lỗi, mà chỉ cần chứng minh hành vi gây thiệt hại là
hành vi trái pháp luật là luôn gắn với yếu tố lỗi. Do đó, chỉ cần xác định
được hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật thì đương nhiên sẽ xác
định được yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại và xác định chủ thể đó phải
bồi thường thiệt hại.
2.1.3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc bồi
thường thiệt hại.
a. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Người gây ra thiệt hại có thể là bất kì chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ
quan nhà nước... nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả
năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc
dù hành vi gây ra thiệt hại có thể do chính họ thực hiện. Điều 586 Bộ luật
dân sự năm 2015 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
nhưng lại không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Bởi vậy, các chủ thể khác được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại xuất phát từ năng lực chủ thể của các cá nhân khi tham
gia vào quan hệ dân sự.
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi
thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” (Được quy định tại điều 19 Bộ
luật dân sự năm 2015), họ phải chịu trách nhiệm do hành vi trái pháp luật
của họ bằng tài sản của chính họ.
- Đối với những người từ đủ 18 tuổi, đầy đủ hành vi dân sự nhưng khả
năng về tài sản của họ trên thực tế không có (người từ đủ 18 tuổi không
có bất kì khoản thu nhập nào, họ không có tài sản riêng để bồi thường).
Vì vậy khi quyết định bồi thường đối với nhữg người này, có thể động
viên cha, mẹ bồi thường thay cho con, nếu cha, mẹ tự nguyện bồi thường
thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha, mẹ phải bồi thường
thay cho con.
- Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự. Vì vậy cha, mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con
mình gây ra. Cách thức dùng tài sản bồi thường được quy định đối với
những người chưa thành niên là khác nhau:
 Đối với người chưa đủ 15 tuổi thì cha, mẹ phải dùng tài sản của
mình để bồi thường; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ mà con có
tài sản riêng thì lấy tài sản riêng của con để bồi thường
 Đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa 18 tuổi thì áp dụng ngược lại,
lấy tài sản của con để bồi thường, cha, mẹ chịu trách nhiệm bồi
thường phần còn thiếu
- Những người chưa đủ 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lí thì trường học
bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức trên không có lỗi thì cha, mẹ,
người giám hộ phải bồi thường
- Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những người phải
có giám hộ theo quy định tại điều 47 Bộ luật dân sư ăm 2015 được dùng
tài sản của người giám hộ để bồi thường, người giám hộ có nghĩa vụ bổ
sung. Tuy nhiên, nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong
việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
b. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
- Căn cứ tại Điều 585 Bộ luật Dân Sự năm 2015:
 Nguyên tắc thứ nhất: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp
thời
 Bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra
là nguyên tắc công bằng, hợp lí, phù hợp với mục đích cũng
như chức năng phục hồi của chế định pháp luật này. Bồi
thường toàn bộ được hiểu là thiệt hại xảy ra bao nhiều thì
phải bồi thường bấy nhiêu
 Quan hệ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, cho
nên các nhà làm luật cho phép các bên quan hệ có thể thỏa
thuận
 Bồi thương thiệt hại kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm
khắc phục những tổn thất của người bị thiệt hại, tạo điều
kiện cho họ khắc phục những tổn thất đó. Điều này có ý
nghĩa to rất quan trọng khi thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
của cá nhân bị xâm hại.
 Nguyên tắc thứ hai: Giảm mức bồi thường
 Để bảo đảm tính khả thi của bản án, quyết định của Tòa án,
phù hợp với những điều kiện thực tế của các đương sự tham
gia quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định tại
khoản 2 điều 585 Bộ luật hình sự năm 2015 “Người chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế của mình”
 Việc giải quyết mức bồi thường phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh, mức độ lỗi của người bị thiệt hại, người gây ra
thiệt hại (không có lỗi, vô ý nặng, nhẹ). Tòa án phải căn cứ
vào từng trường hợp cụ thể để quyết định giảm mức bồi
thường
 Nguyên tắc thứ ba: Thay đổi mức bồi thường
 Mức bồi thường thiệt hại có thể do các bên thỏa thuận hoặc
Tòa án quyết định.
 Mức độ bồi thường thiệt hại đã thỏa thuận và quyết định có
thể bị thay đổi nếu mức bồi thường “không còn phù hợp với
thực tế”
 Việc xem xét tăng hoặc giảm mức bồi thường do Tòa án xác
định theo yêu cầu của các bên
 Nguyên tắc thứ tư: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
chia tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên (bên gây thiệt hại và
bên bị thiệt hại)
 Khi bên thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không
được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Đây
là nguyên tắc phù hợp với lẽ công bằng, bởi người bị thiệt
hại chỉ được bồi thường đối với những thiệt hại được gây ra
bởi lỗi của người khác
 Nguyên tắc thứ năm: Người bị thiệt hại phải ngăn chặn và khắc
phục những thiệt hại xảy ra.
 Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường
nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần
thiết, hợp lí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại do chính mình.
Đây là nguyên tắc mới được ghi nhận trong Bộ luật dân sự
năm 2015 phù hợp với nguyên tắc thiện chí, trung thực trong
quan hệ dân sự.
2.1.4. Bồi thường thiệt hại do nhiều người gây ra.

- Căn cứ theo Điều 587 Bộ luật Dân Sự năm 2015:


“Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên
đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng
người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi
người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt
hại theo phần bằng nhau.”
- Bồi thường thiệt hại khi “nhiều người cùng gây thiệt hại” là trách nhiệm
liên đới bồi thường những người gây ra thiệt hại đối với những người bị
thiệt hại. Cơ sở để xác định trách nhiệm liên đới bồi thường khi nhiều
người gây ra thiệt hại có hành vi “cùng gây thiệt hại” của những người
gây thiệt hại. Khi xác định trách nhiệm bồi thường vẫn phải căn cứ vào
mức độ lỗi của mỗi người để xác định mức độ bồi thường thiệt hai cho
từng người
- Nhiều người cùng gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường theo
quy định tại điều 587 Bộ luật dân sự năm 2015 có thể xảy ra hai trường
hợp sau: nhiều người gây thiệt hại cho một người; nhiều người gây thiệt
hại cho nhiều người.
a. Điều kiện phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường của nhiều người
cùng gây thiệt hại.
- Thứ nhất, có việc gây thiệt hại của nhiều người
 Hành vi trái pháp luật của những người gây ra thiệt hại thể hiện sự
vi phạm pháp luật của mỗi người trong việc gây ra thiệt hại hoặc
trong lĩnh vực hoạt động của từng người đó.
- Thứ hai, hành vi trái pháp luật trong việc gây thiệt hại của nhiều người có
sự thống nhất với nhau
 Để phát sinh trách nhiệm bồi thường liên đới bồi thường giữa
những người gây ra thiệt hại thì giữa họ phải có sự thống nhất về
hành vi gây thiệt hại, điều này nói lên tính chất “cùng gây thiệt hại”
 Khi nhiều người cùng gây thiệt hại, nếu chúng ta xem xét điều kiện
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
hành vi của mỗi người đều mang đầy đủ các yếu tố làm phát sinh
trách nhiệm trong tổng thể thiệt hại đã xảy ra. Khi xác định việc
“cùng” gây thiệt hại của nhiều người thì cần phải xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau như xem xét về mặt ý chí chủ quan của
mỗi người, về hành vi trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc xét về hậu quả
của các hành vi vi phạm
 Trường hợp những người gây ra thiệt hại có sự thống nhất ý chí
trong việc gây thiệt hại, tuy nhiên mức độ thực hiện của từng người
có thể khác nhau, thì hành vi của những người gây thiệt hại có sự
thống nhất ý chí nhưng sự thống nhất ý chí này có cả ở hậu quả của
hành vi cùng gây thiệt hại. Nếu không xác định được nó như vậy
thì trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cũng không phát sinh.
 Như vậy, “cùng gây thiệt hại” được hiểu là hành vi của những
người gây thiệt hại đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đã xảy ra,
không phụ thuộc vào việc hành vi của từng người là nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến thiệt hại. Không thể phân biệt hành
vi nào gây tổn thất nào trong tổng thể thiệt hại đã xảy ra. Tóm lại,
cùng gây ra thiệt hại được hiểu là tổng hợp hành vi, lỗi của nhiều
người diễn ra dưới các dạng khác nhau nhưng giữ chúng có mối
liên kết, tương hỗ và cùng gây ra thiệt hại cho đối tượng bị thiệt hại
- Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của những
người cùng gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.
 Hành vi gây thiệt hại của những người cùng gây ra thiệt hại có thể
khác nhau về mức độ nhưng cùng đem lại hậu quả là thiệt hại cho
người bị thiệt hại
b. Mức bồi thường trong trách nhiệm liên đới bồi thường khi nhiều
người cùng gây thiệt hại.
- Nguyên tắc chung khi nhiều người cùng gây thiệt hại là họ phải chịu
trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại
- Nếu không xác định được mức độ lỗi của từng người thì họ phải bồi
thường bằng nhau. Theo quy định trên, khi có nhiều người cùng gây thiệt
hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
 Nguyên tắc chung, một người chỉ phải chịu trách nhiệm do hành vi
của mình gây ra cũng như hậu quả của hành vi đó
 Nếu không xác định được mức độ lỗi của những người gây ra thiệt
hại thì họ phải bồi thường bằng nhau
2.1.5. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

- Căn cứ theo Điều 588 Bộ luật Dân Sự năm 2015:


“Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm.”
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là thời hạn do pháp luật
quy định mà trong thời hạn đó, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu
cầu người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
2.1.6. Xác định thiệt hại

- Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể được xác định đầy đủ
và chính xác khi xác định “toàn bộ thiệt hại” là bao nhiêu và trên cơ sở đó
ấn định mức bồi thường.
- Những thiệt hại phải bồi thường là thiệt hại do tài sản (điều 589 BLDS
năm 2015), thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (điều 590 BLDS năm
2015), thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (điều 591 BLDS năm 2015),
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (điều 592 BLDS
năm 2015)
a. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
- Căn cứ theo Điều 589 BLDS năm 2015:
“Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút
3. Chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
4. Thiệt hại kác do luật quy định”
- Thiệt hại trực tiếp:
 thiệt hại do tài sản bị mất (tính đến tình trạng tài sản, thời giá thị
trường tại thời điểm tài sản bị mất); tài sản bị hủy hoại là những tài
sản không thể phục hồi chức năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là
những chi phí hợp lí, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính
năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại
 Những chi phi phải bỏ ra bao gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại hoặc khác phục thiệt hại. Bồi thường thiệt hại trực tiếp về
tài sản có thể thực hiện bằng các cách như sau: bằng tiền, bằng
hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về nguyên tắc chung các
bên có thể thỏa thuận với nhau.
- Thiệt hại gián tiếp:
 Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản (không thể khai thác tài
sản trong suốt thời gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại)
 Những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu không có thiệt hại
xảy ra và những chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại
b. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
- Sức khỏe khó có thể xác định chính xác bằng một khoản tiền. Vì vậy bồi
thường thiệt hại về sức khỏe thực chất có ý nghĩa là đền bù một phần thiệt
hại về vật chất, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó
khăn do tai nạn gây nên và trong một số trường hợp chỉ có ý nghĩa là một
trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân
- Xác định thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
 Chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
các chức năng bị mất, bị giảm sút (tiền thuốc, tiền viện phi và các
dịch vụ chữa bệnh khác,..) nếu do yêu cầu chăm só nạn nhân thì chi
phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của
cơ sở chữa bệnh.
 Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị hại, nếu thu
nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng
loại.
 Chi phí hợp lí và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất
khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì
thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lí cho việc chăm sóc người bị thiệt
hại
 Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi
xảy ra tai nạn và sau khi điều trị
 Tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu là một khái niệm
trừu tượng. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định
c. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
- Căn cứ theo Điều 590 BLDS năm 2015:
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác
định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại
bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần
mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một
người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định.”
d. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
- Căn cứ theo Điều 592 BLDS năm 2015:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo
quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối
đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
2.1.7. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm.
- Thời hạn được bồi thường là khoảng thời gian mà người được bồi thường
được hưởng do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
- Nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì khoản thu
nhập bị giảm sút của họ được bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả
năng lao động đến khi họ chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
- Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà họ có nghĩa
vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng quyền tiền cấp dưỡng từ thời
điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau
 Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người
chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho
đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa 18
tuổi đã tham gia lao đọng và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân
 Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng
tiền cấp dưỡng cho đến khi chết
- Căn cứ tại Điều 593 BLDS năm 2015.
2.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra

2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 22 BLHS 2015:
“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích
chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ
quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi
xâm phạm các lợi ích nói trên.”
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”
- Hành vi phòng vệ được coi là chính đáng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
 Phòng vệ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân.
 Thiệt hại xảy ra cho chính người có hành vi trái pháp luật, xâm
pháp đến quyền và lợi ích hợp pháp kể trên.
 Chỉ phòng vệ khi có hành vi của con người đang gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại mà cần phải ngăn chặn kịp thời để hậu quả
không xảy ra hoặc hạn chế được thiệt hại.
 Biện pháp chống trả của người phòng vệ chính đáng là biện pháp
cần thiết.
 “Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải
bồi thường cho người bị hại.
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.”
(Điều 594 BLDS 2015)
 VD: Một người A bị tấn công bởi người B trong một cuộc tranh
cãi. Người A sử dụng một cây gậy để tự vệ và đánh trả lại người B.
Tuy nhiên, người A không chỉ đánh để ngăn chặn cuộc tấn công
mà còn tiếp tục đánh ngay cả khi người B đã ngừng tấn công và đã
bị khuất phục. Kết quả là người B bị thương nặng và phải nhập
viện điều trị. Trong trường hợp này, A sẽ phải bồi thường cho B vì
đã gây thiệt hại về sức khỏe do vượt quá giới hạn phòng về chính
đáng.
2.2.2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết:
- Căn cứ: Điều 171 BLDS 2015:
“Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành
động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.”
- Hành vi gây thiệt hại được coi là tình thế cấp thiết khi đủ các điều kiện
sau:
 Có nguy cơ đe dọa trực tiếp đến những lợi ích chính đáng được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ (vật chất, tinh thần; cá nhân, tổ chức;
lợi ích công cộng hay lợi ích của Nhà nước).
 Nguy cơ đe dọa phải có thực, đang diễn ra và chưa kết thúc, hoặc
sẽ xảy ra ngay tức khắc đe dọa trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
 Biện pháp gây thiệt hại là biện pháp duy nhất cuối cùng (chỉ áp
dụng đối với những chủ thể có khả năng thể hiện ý chí, khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình).
 Với mục đích ngăn chặn, khắc phục thiệt hại cũng như bảo vệ lợi
ích lớn hơn, pháp luật yêu cầu thiệt hại xảy ra phải nhỏ hơn thiệt
hại cần ngăn chặn.
 Ngoài ra hành động trong tình thế cấp thiết pháp luật không cho
phép dùng tính mạng, sức khỏe người khác để ngăn chặn thiệt hại
đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc.
Tuy nhiên, hành vi gây thiệt hại phù hợp với yêu cầu của tình thế
cấp thiết chủ thể gây hại sẽ không phải bồi thường cho người bị
thiệt hại vì hành vi gây hại trong trường hợp trên là phù hợp với
quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình cũng như của người khác:
Tại khoản 3 điều 171 BLDS 2015 quy định: “Gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết không phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối
với tài sản bị thiệt hại trong tình thế cấp thiết được bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 595 của Bộ luật này.”
 “Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.” (Điều 595 BLDS 2015)
 VD: Một vụ hỏa hoạn xảy ra trong khu dân cư A. Để ngăn ngọn
lửa lan rộng và gây thiệt hại lớn hơn, lực lượng cứu hỏa quyết định
phá dỡ một số ngôi nhà lân cận nhằm tạo ra một khoảng trống, hạn
chế đám cháy lan rộng. Tuy nhiên, việc phá dỡ này gây thiệt hại
lớn hơn mức cần thiết vì ngọn lửa không lan đến những ngôi nhà
đó. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt
quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thuộc về lực lượng cứu hỏa.
2.2.3. Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích:

- Căn cứ: Điều 596 BLDS 2015:


“1. Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào
tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, gây thiệt hại cho
người khác thì phải bồi thường.
2. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho
người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành
vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
 Hành vi gây hại là yếu tố được quan tâm hơn yếu tố lỗi (dù người gây
thiệt hại có nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hay không vẫn
phải bồi thường cho người bị thiệt hại trừ trường hợp thuộc khoản 2 điều
594 BLDS 2015). Trách nhiệm bồi thường chỉ được loại trừ khi bên gây
hại chứng minh được việc gây thiệt hại là do sự kiện bất khả kháng, hay
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại (Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015).
 VD: Anh A lái xe trong tình trạng say rượu và gây tai nạn, đâm vào
xe của chị B và làm hư hỏng xe, khiến chị B bị gãy tay và bị trầy
xước. Anh A phải bồi thường cho chị B vì anh A đã gây thiệt hại
cho chị và tai nạn này xảy ra hoàn toàn không do lỗi của chị B.
- Các trường hợp bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra:
 Người dùng rượu hoặc chất kích thích khác là người đã thành niên,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thì người này phải chịu trách
nhiệm về những thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Trường hợp người này từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn phát sinh và cơ chế lấy tài sản để
bồi thường được thực hiện theo quy định về năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đã được phân tích trong phần trên.
 Nếu người dùng rượu hoặc chất kích thích là người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được xác định cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó.
 Trường hợp 1 người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm
cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm
chủ hành vi mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phát sinh không cần xem xét đến mục đích của việc cố ý để người
kia gây ra thiệt hại hay không.
2.2.4. Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra:

- Khái niệm pháp nhân


Căn cứ: Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015.
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây:
 Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan;
 Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
 Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình;
 Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
- Đặc điểm:
Cá nhân có thể là người đại diện của pháp nhân (đại diện theo pháp luật,
đại diện theo ủy quyền), cũng có thể là thành viên của pháp nhân (người
của pháp nhân). Pháp nhân là chủ thể hưởng thụ những lợi ích từ hành vi
cá nhân nói trên mang lại, đồng thời cũng là chủ thể phải chịu trách
nhiệm từ những nghĩa vụ phát sinh từ hành vi mà những cá nhân này gây
ra.
 VD: A là nhân viên kỹ thuật của Công ti X. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao, A gây thiệt hại cho B. Trường hợp này
có thể xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là Công ti X,
bởi hành vi của A được xác định chính là hoạt động của pháp nhân
X. Cũng cần phải phân biệt khi công ti X ký hợp đồng dịch vụ với
C về việc xử lí kỹ thuật liên quan đến hàng hóa mà Công ti X đã
nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ, C gây thiệt
hại cho B. Trường hợp này trách nhiệm bồi thường thiệt hại không
phát sinh cho công ti X, vì công việc đã được quy định cụ thể trong
hợp đồng dịch vụ và C hoàn toàn có quyền tổ chức công việc một
cách độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của ai. C không được xác
định là người của pháp nhân X.
 “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường
thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” (Điều 597 BLDS
2015)
2.2.5. Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra:

- Khái niệm:
Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp
luật có liên quan vào 1 vị trí cơ quan nhà nước.
- Trách nhiệm bồi thường:
 Căn cứ: Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước 201. Nhà
nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:
“1. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau
đây:
a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương
ứng quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này;
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây
thiệt hại.
2. Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
a) Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của
Luật này và có yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành
công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;
b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định
có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công
vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại;
c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có
hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt
hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi
hành án hình sự, thi hành án dân sự và có yêu cầu bồi thường trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.”
- Chi phí bồi thường khi người thi hành công vụ gây thiệt hại:
 Người thi hành công có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có
hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội thì phải hoàn trả toàn
bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
 Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây hại nhưng chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng
lương cơ sở.
 Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả
từ 3 đến 5 tháng lương của người đó, tối đa là 50% số tiền Nhà
nước đã bồi thường.
 Trường hợp 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường thấp hơn 30%
tháng lương hoặc thấp hơn 3 tháng lương theo quy định nêu trên thi
hành công vụ phải hoàn trả 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường.
 VD: Một cảnh sát giao thông đang truy đuổi A vi phạm luật giao
thông, và trong quá trình truy đuổi, cảnh sát này gây ra tai nạn giao
thông làm hư hỏng xe của B đi đường và gây thương tích cho B
này. Lỗi của người cảnh sát ở đây được xác định là lỗi vô ý gây
thiệt hại vì người cảnh sát không cố ý gây tai nạn cho B trong lúc
thực hiện nhiệm vụ vậy nên cảnh sát này sẽ phải hoàn trả từ 3 đến
5 tháng lương của người đó, tối đa là 50% số tiền Nhà nước đã bồi
thường là chi phí bồi thường khi gây thiệt hại.
2.2.6. Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra trong trường học, bệnh viên, pháp nhân trực tiếp quản lí:
- Căn cứ xác lập:
Điều 599 LBLDS 2015
“1. Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp
quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp
nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có
lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi
thường.”
- Trường hợp trách nhiệm bồi thường được xác định:
 Trách nhiệm giữa nhà trường và cha mẹ;
 Trách nhiệm giữa người giám hộ và bệnh viện khi để người dưới
15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại.
 VD: Vì tích chất công việc không thể nấu cơm trưa nên chị A đã
gửi con ăn bán trú tại Trường tiểu học. Trong giờ ăn trưa không có
giáo viên quản lí nên B là con chị A đã nghịch ngợm khiến bút
đâm vào mặt làm C bị rách mặt. Vậy nên, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho cháu C thuộc về nhà trường bởi nhà trường đã có lỗi
trong việc quản lý học sinh khi không có giáo viên quản lý trong
giờ ăn trưa dẫn đến sự việc trên.
- Tuy nhiên trong trường hợp mà nhà trường, bệnh viện, pháp nhân khác
đang trực tiếp quản lí người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự: mà họ đã áp dụng những biện pháp để quản lí giám sát những người
này rất tốt, nhưng vẫn không kiểm soát được thiệt hại thì trách nhiệm bồi
thường được chuyển sang cho cha, mẹ hoặc người giám hộ.
 VD: Một trường học tổ chức đi dã ngoại cho học sinh lớp 4. Trong
suốt chuyến đi nhà trường đã tuân thủ đầy đủ các quy định an toàn
và bố trí giáo viên giám sát học sinh. Tuy nhiên trong lúc chơi đùa
D đã vô tình đẩy ngã B khiến B bị gãy tay thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho B thuộc về cha mẹ hoặc người giám hộ của D
vì nhà trường không có lỗi trong việc quản lý học sinh nhưng vẫn
không ngăn chặn, kiểm soát được thiệt hại.
2.2.7. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra:
- Khái niệm:
 Người của pháp nhân là những cá nhân đựợc xác lập với pháp nhân
hợp đồng lao động, thực hiện những công việc được pháp nhân
giao và hưởng chế độ của người lao động theo quy định của pháp
luật.
 Người làm dịch vụ có quan hệ hợp đồng dịch vụ với bên thuê dịch
vụ, được chủ động và độc lập trong việc thực hiện công việc của
mình.
 Người làm công là người thực hiện công việc theo sự chỉ đạo, sắp
xếp phân công của cá nhân, pháp nhân sử dụng người làm công,
không có sự độc lập trong quá trình thực hiện công việc.
 Người học nghề là người đang theo học một nghề nghiệp có tính
chất chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu
khoa học- kĩ thuật... để hành nghề kiếm sống.
- Căn cứ xác lập:
 Điều 600 BLDS 2015: Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt
hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện
công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người
học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật.
2.2.8. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường:

- Căn cứ: Điều 602 BLDS 2015


Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi
 VD: Một nhà máy công nghiệp X xả thải hóa chất độc hại ra sông,
gây ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cộng
đồng dân cư sống quanh khu vực sông. Trong trường hợp này,
công ty X có lỗi vì đã xả thải ra sông nên công ty X phải bồi
thường.
- Các trường hợp thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường:
 Do hành vi của con người nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất,
kinh doanh:
 Xả khí thải vào không khí;
 Xả chất thải ra nguồn nước công cộng;
 Thải chất thải rắn, tiếng ồn, độ rung và các chất gây ô nhiễm
khác vượt quá quy; chuẩn kỹ thuật môi trường.
 Căn cứ: Điều 130 Luật bảo vệ môi trường 2020:
“Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường bao gồm:
Suy thoái chức năng, tính hữu ích của môi trường
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.”
- Chi phí bồi thường thiệt hại về môi trường căn cứ vào:
 Điều 134 Luật bảo vệ môi trường 2020:
“Chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài cho sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường;
Chi phí xử lí, cải tạo môi trường;
Chi phí giảm thiểu, triệt tiêu nguồn gây thiệt hại hoặc tổ chức ứng
phó sự cố môi trường;
Chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục bồi thường thiệt hại
về môi trường;
Tùy điều kiện cụ thể có thể áp dụng các căn cứ nên trên để tính chi
phí thiệt hại về môi trường, làm căn cứ để bồi thường và giải quyết
bồi thường thiệt hại về môi trường.”
2.2.9. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể:

- Biểu hiện của hành vi xâm phạm thi thể:


Chiếm đoạt toàn bộ thi thể hoặc chỉ chiếm đoạt một phần thi thể nhằm
phục vụ mục đích nhất định của chủ thể có hành vi.
 VD: Một bệnh viện C quản lý không chặt chẽ dẫn đến việc thi thể
của một bệnh nhân A bị mất tích hoặc bị xử lý không đúng cách,
chẳng hạn như nhầm lẫn thi thể hoặc thi thể bị hư hỏng do bảo
quản không đúng quy định.
- Quy định thường thiệt hại do xâm phạm thi thể:
Căn cứ: Điều 606 BLDS 2015
* Thiệt hại đó bao gồm:
Chi phí hợp lí để hạn chế, khắc phục thiệt hại (Thiệt hại vật chất): tìm
kiếm thi thể, tìm kiếm một phần thi thể bị mất, vận chuyển, bảo quản...
Bù đắp tổn thất về tinh thần (Thiệt hại về tinh thần): khoản lợi ích vật
chất này được quy định để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho những
người thân thích thuộc họ hàng thừa kế thứ nhất của người chết, hoặc nếu
không có những người này thì trực tiếp nuôi dưỡng người chết được
hưởng khoản tiền này. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được
thì mức bồi thường tối đa được quy định là ba mươi lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định (tính trên một thi thể bị xâm phạm).
2.2.10. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả:

- Khái niệm:
Mồ mả là nơi chôn cất người chết đối tượng thuộc về mặt tâm linh.
- Quy định bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả:
Căn cứ: Điều 607 BLDS 2015
“1. Cá nhân, pháp nhân xâm phạm đến mồ mả của người khác phải bồi
thường thiệt hại.
2. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc
phục thiệt hại.
3. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả của người
khác bị xâm phạm phải bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều này và
một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân
thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có những người
này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền
này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm
phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
 VD: Một công ty xây dựng A tiến hành đào bới để thi công dự án
mà không biết rằng khu vực này là một nghĩa trang. Trong quá
trình thi công, họ đã vô tình đào phải và làm hư hại một số ngôi
mộ. Vì người thi công là người của công ty A vậy nên đây là trách
nhiệm bồi thường do người của pháp nhân gây ra và pháp nhân nà
sẽ phải bồi thường theo quy ddinhj của luật.
2.2.11. Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng:

- Khái niệm:
Người tiêu dùng là cá nhân, tổ chức thực hiện việc mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của các cá
nhân, tổ chức đó.
 VD: A mua bánh bao của cửa hàng B và sau khi ăn, A bị ngộ độc
thực phẩm. A có thể yêu cầu chủ quản lí của cửa hàng B bồi
thường chi phí y tế và các chi phí phát sinh khác do việc bị ngộ độc
gây ra.
- Nguyên tắc:
 Trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất không tuân thủ các điều kiện kĩ
thuật, điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn sản xuất...
đối với sản phẩm của mình.
 Trách nhiệm thuộc về nhà phân phối khi nhà sản xuất đã đáp ứng
được hoàn toàn những điều kiện về tiêu chuẩn, kĩ thuật. Tuy nhiên,
nhà phân phối đã không thực hiện bảo quản sản phẩm đúng yêu
cầu khiến sản phẩm bị hư hỏng, giảm sút chất lượng.
 Trách nhiệm cũng thuộc về nhà nhập khẩu, hoặc những cơ quan có
liên quan đến quá trình nhập khẩu khi thực hiện những hành vi trái
với pháp luật, làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm ban
đầu.
- Giải pháp:
 Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi
trường, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình
cũng như người khác.
 Khi phát hiện hàng hóa có dấu hiệu không an toàn, gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây hại đến tính mạng thì cần thông tin cho cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan.

2.3. Bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

2.3.1. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo
Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015:
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải
cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động,
vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo
quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
quy định của pháp luật.
 Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ
moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô
hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các
loại xe tương tự theo quy định tại khoản 18 Điều 3 của Luật Giao
thông đường bộ năm 2008 là nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau
đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
 VD: Khu vực có biển báo là nguồn điện cao thế nguy hiểm chết
người nhưng A vẫn vào trộm đồ và bị điện giật chết là trường hợp
hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 VD: A đang lái xe ô tô theo đúng Luật Giao thông đường bộ, B lái
xe máy theo hướng ngược chiều với A và lấn làn đường của A. Để
tránh gây tai nạn cho B và không còn cách nào khác nên A đã lái
xe va vào chiếc xe máy thuộc sở hữu của C đang đậu trên lề đường
gây thiệt hại cho C. Trường hợp này là tình thế cấp thiết, A không
phải bồi thường thiệt hại cho C mà B phải bồi thường thiệt hại cho
C vì B đã gây ra tình thế cấp thiết theo khoản 2 Điều 595 của Bộ
luật Dân sự.
4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
 VD: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô nhưng vẫn
giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở
hữu phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
2.3.2. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo Điều 603 Bộ luật
Dân sự năm 2015:
1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho
người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường
thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt
hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu
người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt
hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường;
khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc
để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi
thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ
sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội.
 VD: A dắt chó đi dạo mà không có dây xích và rọ mõm. Chó của
anh A bất ngờ tấn công và cắn chị B, người đi bộ gần đó. Chị B bị
thương, phải nhập viện để điều trị.
Chi phí điều trị:
Tiền khám và chữa trị ban đầu: ~ 1.500.000 triệu đồng
Tiền thuốc và chi phí điều trị: ~2.000.000 triệu đồng
Chi phí đi lại để điều trị: ~500.000 triệu đồng
Tổng: ~ 4.000.000 triệu đồng
Thiệt hại do mất thu nhập:
Chị B không thể đi làm trong thời gian điều trị: ~10.000.000 triệu
đồng
Thiệt hại tinh thần:
Chị B bị kích động về tinh thần khi bị chó của anh A tấn công và
cắn từ đó có thể gây ám ảnh về tinh thần cho chị A.
Chị B không thể đi làm trong thời gian điều trị cũng gây thiệt hại
về vật chất khi chỉ ở nhà điều trị không kiếm được tiền trang trải
cuộc sống và bị thương do bị chó cắn.
2.3.3. Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

- Khái niệm: Điều 604 BLDS 2015:


Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường
thiệt hại do cây cối gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người được giao quản lý.
 VD: Cành cây lớn trong khuôn viên nhà ông A gần mặt đường và
có dấu hiệu có mục. Do ông A không cắt tỉa thường xuyên, cành
cây bị gió làm rơi xuống và đập trúng đầu anh B đang đi bộ, khiến
anh bị thương.
Chi phí điều trị:
Tiền khám và chữa trị ban đầu: ~ 2.000.000 triệu đồng
Tiền thuốc và chi phí điều trị: ~5.000.000 triệu đồng
Chi phí đi lại để điều trị: ~ 1.000.000 triệu đồng
Tổng: ~8.000.000 triệu đồng
Thiệt hại do mất thu nhập:
Anh B không thể đi làm trong thời gian điều trị: ~15.000.000 triệu
đồng
Thiệt hại tinh thần: Anh B bị cành cây rơi vào đầu sẽ gây ra choáng
ảnh hưởng đến tinh thần.

2.3.4. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.

- Trường hợp bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây ra theo Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa,
công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác.
 VD: Trong quá trình phá bỏ công trình cũ để xây dựng mới, chị A
không thực hiện đúng biện pháp, dẫn đến tường nhà chị B kế bên
bị vỡ nứt và hư hỏng.
Thiệt hại về tài sản: Tường nhà chị B bị vỡ nứt và hư hỏng
Chi phí sửa chữa tường nhà: ~10.000.000 triệu đồng
Chi phí sơn lại tường để khôi phục trạng thái ban đầu: ~2.000.000
triệu đồng.
PHẦN 3. KẾT LUẬN

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một phần quan trọng
của hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức trong xã hội. Nó không chỉ giúp đảm bảo rằng những người gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm và bồi thường, mà còn góp phần duy trì trật tự và
công bằng trong xã hội.

Qua việc tìm hiểu các quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra, bồi thường thiệt hại
do tài sản gây ra. chúng ta có được cái nhìn toàn diện về chủ đề này. Điều này
không chỉ giúp bảo vệ bản thân khi gặp phải tình huống bị xâm phạm mà còn
nâng cao ý thức về trách nhiệm đối với hành vi của mình, từ đó góp phần xây
dựng một xã hội văn minh và pháp quyền.

Hiểu rõ và áp dụng đúng các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng sẽ giúp mỗi cá nhân và tổ chức không chỉ tự bảo vệ quyền
lợi của mình mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự tôn trọng pháp luật,
góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng.

You might also like