0% found this document useful (0 votes)
45 views11 pages

Cac Khau, Yeu Cau

cac khau, yeu cau
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
45 views11 pages

Cac Khau, Yeu Cau

cac khau, yeu cau
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
You are on page 1/ 11

- Mâu thuẫn phải được người được giáo dục ý thức một cách đầy đủ.


nghĩa là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra đối với người được GD phải được
họ hiểu và có nhu cầu giải quyết. VD: nhiệm vụ đó là gì? bản thân mình đang ở
đâu trước yêu cầu đó…
- Mâu thuẫn đặt ra phải “vừa sức” với người được giáo dục, có nghĩa là
không quá khó và cũng không quá dễ đối với họ. Bằng sự nỗ lực người được giáo
dục có thể giải quyết được.
- Mâu thuẫn phải do tiến trình của quá trình giáo dục mang lại. Có nghĩa là:
sự xuất hiện của yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đối với người được giáo dục là sự tất
yếu của quá trình giáo dục mang lại. Do đó việc đặt ra yêu cầu, nhiệm đúng lúc,
đúng thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng, việc quá sớm hay quá muộn đều không
kích thích người được giáo dục nỗ lực giải quyết.

2. Lôgic của quá trình giáo dục


* Khái niệm lôgic của quá trình giáo dục
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự vận động hợp quy luật của quá
trình giáo dục, nhằm đảm bảo cho người được giáo dục đi từ trình độ tri thức, xúc
cảm, tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
tương ứng từ lúc bắt đầu tham gia một hoạt động giáo dục nào đó, đến trình độ
trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp với các
chuẩn mực xã hội, tương ứng với lúc kết thúc hoạt động giáo dục.
Lôgic của quá trình giáo dục phải được xây dựng sao cho phù hợp với logic
của từng nội dung giáo dục cụ thể và đặc điểm của người được giáo dục. Chính
vì vậy nhà giáo dục khi tiến hành tổ chức hoạt động giáo dục cho những nhóm
đối tượng giáo dục khác nhau thì tiến thực hiện cũng khác nhau. Vì vậy logic của
quá trình giáo dục có tính động cao.
* Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kì một
phẩm chất nhân cách nào đó đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống
tâm lý cá nhân: nhận thức, tình cảm, kĩ năng hành động ý chí, … Từ lý luận và
thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá trình giáo dục diễn ra theo các khâu cơ bản
sau:
a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các chuẩn
mực xã hội đã quy định
nội dung: Các chuẩn mực xã hội là thước đo giá trị hành vi của con người được xã hội
thừa nhận, có tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của cá nhân, của nhóm xã
hội trong những điều kiện nhất định. Chuẩn mực xã hội cũng chính là những điều
kiện mà xã hội kiểm tra hành vi của cá nhân và cá nhân lại có thể sử dụng nó để
kiểm tra hành vi của mình trên cơ sở đó hướng tới sự phát triển xã hội.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội: giá trị
chuẩn mực về pháp luật, chuẩn mực về đạo đức, chuẩn mực về truyền thống,
chuẩn mực về phong tục tập quán, chuẩn mực về thẩm mỹ…Trong đó, nhiều loại
chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa vào nội dung quá trình
giáo dục.
Ý nghĩa: Nhận thức là cơ sở, là kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh tình cảm,
thái độ, hành vi của mỗi cá nhân. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực
thực hiện theo các chuẩn mực xã hội đã quy định. Đòi hỏi nhà giáo dục cần phải
tác động tới nhận thức của người được giáo dục, giúp cho người được giáo dục
nắm vững được những tri thức về các chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng)
- Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa,
kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, là sản phẩm của quá trình học
tập và tự tu dưỡng. Đối với học sinh phổ thông, giáo dục ý thức cá nhân là khâu
cực kì quan trọng, quá trình này được thực hiện thông qua quá trình học tập và
các hoạt động rèn luyện trong và ngoài nhà trường. Qua đó những khái niệm về
đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực xã hội, những giá
trị văn hóa sẽ được hình thành.
b. Tổ chức điều kiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình cảm tích
cực với các chuẩn mực xã hội quy định
Chính trong quá trình hình thành, phát triển tri thức về các chuẩn mực xã hội
cho người được giáo dục thì thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực đối với các
chuẩn mực xã hội ở họ dần được hình thành.
Nội dung Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể hiện
ở người được giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:
- Người được giáo dục nắm được những tri thức về các chuẩn mực xã hội
- Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân lý đúng đắn
của các chuẩn mực xã hội
- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã
hội.
- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội
- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực
xã hội
- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác có
mâu thuẫn với những chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo
nên ở người được giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức
nói chung, niềm tin nói riêng cho người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc
cảm, tình cảm tốt đẹp đối với các chuẩn mực xã hội. Những xúc cảm, tình cảm
tích cực đó như là những “chất men” kích thích người được giáo dục chuyển hoá
ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Ý nghĩa Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:
1 - Nếu ý thức về các chuẩn mực xã hội của người được giáo dục bị hạn chế thì
tình cảm tương ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang
tính chất hình thức, thậm chí không hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.
2 - Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực xã hội mà
không có tình cảm tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc và
thậm chí không hình thành hay sai lệch: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”

3
Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực xã hội một cách không tự giác sẽ
dẫn đến tình trạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết quả giáo dục là hình
thành bộ mặt nhân cách giả tạo.
yêu cầu: Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm
tích cực cho học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bè bạn, xã
hội, đối với tự nhiên và môi trường xung quanh là điều có ý nghĩa rất quan trọng.
Giáo dục xây dựng niềm tin cho các em vào chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm
yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái với bạn bè,… và đồng thời chú
ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch lạc, thiếu trong sáng
làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.
c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi và thói quen
hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi ngưòi được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi của
họ chứ không chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của
bộ mặt tâm lí, đạo đức của con người.
ý nghĩa Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm
chất nhân cách của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do
đó, quá trình giáo dục quan trọng nhất là phải tổ chức, điều khiển ngưòi được
giáo dục tham gia vào những mối quan hệ hoạt động và giao lưu để họ tự rèn
luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội và lặp
đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi văn hóa khi
đã trở thành thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử
của mọi tình huống cuộc sống hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình
hoạt động và được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống.
Giáo dục hành vi, thói quen hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình
học tập tu dưỡng và rèn luyện lâu dài của người được giáo dục.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong
phú dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi
dưỡng cho người được giáo dục ý thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh
giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói quen hành vi đạo đức của người được
giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các
tiêu chí sau đây:
• Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không?
• Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không?
• Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không?
• Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế
nào?
MQH giữa các khâu: 1
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận
thức, tình cảm, hành vi thói quen của người được giáo dục có mối quan hệ mật
2
thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau thậm trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức là cơ
sở là điều kiện cần cho việc hình thành tình cảm, hành vi tương ứng ở người
được giáo dục;3 Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động để
4
biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện hành vi là
yếu tố quyết định sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi
hỏi nhà giáo dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc
vận dụng các khâu sao cho phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo
dục và hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy tính hiệu quả của quá trình giáo dục.
Trong phạm vi toàn trường, tập thể học sinh gồm có: Hội học sinh, Liên chi
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Liên Chi đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh…
Mỗi đơn vị tập thể này có vị trí và vai trò riêng, quan trọng nhất là các tổ
chức cơ sở, nơi trực tiếp quản lý giáo dục học sinh. Tập thể học sinh tuy có khác
nhau về cách tổ chức nhưng cùng thống nhất một mục đích là giáo dục học sinh.
Các tổ chức này cùng phối hợp hoạt động chung trong tất cả các phương diện.
Tập thể học sinh có cơ cấu tổ chức là đội ngũ tự quản do các thành viên
bầu ra và các thành viên. Tập thể làm việc theo nguyên tắc tự nguyện.
Tập thể được coi là môi trường và phương tiện để thực hiện việc giáo dục
toàn diện đối với học sinh. Để giúp cho việc quản lý, giáo dục tập thể được hiệu
quả nhà trường đã cử ra đại diện của mình nhằm thực hiện điều đó. Đây là người
đại diện cho mong muốn, ý chí của nhà trường, thực hiện các tác động giáo dục
tới đối tượng giáo dục một cách trực tiếp, mang tính chủ đích để giúp họ trở
thành những người có ích cho xã hội. Người này được gọi là giáo viên chủ nhiệm
lớp.
Khái niệm Giáo viên chủ nhiệm là người có chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, có kinh
nghiệm giáo dục, được hiệu trưởng lựa chọn và hội đồng giáo dục nhất trí phân
công làm chủ nhiệm lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục. Đây là
người có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm, trung thực thẳng thắn và tận tình chu
đáo… trong công tác quản lý giáo dục học sinh nói riêng.
Giáo viên chủ nhiệm được hiệu trưởng ủy quyền việc thực hiện nhiệm vụ
quản lý lớp và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về toàn bộ kết quả các hoạt
động giáo dục đối với học sinh lớp chủ nhiệm.
Trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp là người có vị trí vô cùng quan
trọng
Vị trí, vai trò 1. Giáo viên chủ nhiệm lớp là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay
mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh, quản lý và chịu trách
nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực
hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.2.Đây là người giúp hiệu trưởng
trong quản lý, giáo dục và rèn luyện học sinh, thực hiện chức năng phản biện về
các hoạt động giảng dạy và học tập của học sinh, trong đó lấy học sinh và kết quả
đào tạo làm cơ sở để phản biện về chính sách, chế độ, kế hoạch đào tạo của nhà
trường, với mục đích hướng nhà trường hoạt động hiệu quả, chất lượng cao.3.Đây
là người vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người
thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể
lớp.
4. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa lớp với các giáo viên bộ môn, tổ
chuyên môn, ban giám hiệu, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Công đoàn,
Đoàn thanh niên, Nữ công…) và cha mẹ học sinh. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò
là người gắn kết học sinh với nhà trường, tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tập thể
học sinh, giữa học sinh với nhà trường.
5. Với tập thể học sinh, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là người tổ chức,
hướng dẫn, điều khiển, kiểm tra, đánh giá toàn diện mọi hoạt động và các mối
quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán
bộ lớp, cán bộ Đoàn – Đội và tính tự giác của mọi học sinh trong lớp. Giáo viên
chủ nhiệm đóng vai trò chủ chốt trong công tác giáo dục đạo đức, lý tưởng, lối
sống, tư vấn và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, giúp học sinh học tập, rèn
luyện nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, hình thành những định hướng giá trị
tích cực…
6. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa gia đình- nhà trường - xã hội. Ở vị trí
này, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là người thống nhất các tác động và ảnh
hưởng của các lực lượng giáo dục khác nhau theo một phương hướng nhất định,
có tác dụng tích cực trong hình thành và phát triển nhân cách học sinh lớp mình
chủ nhiệm.
II. Chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp
1. Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp
a. Chức năng quản lý:
1 Giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm
quản lý toàn diện học sinh trong phạm vi lớp mình phụ trách.
2 Để thực hiện được điều này giáo viên chủ nhiệm phải làm các công việc như
sau:
- Thiết kế kế hoạch xây dựng và phát triển tập thể học sinh.
- Phát huy ý thức tự quản của học sinh, xây dựng bộ máy tự quản của lớp.
- Cố vấn cho bộ máy hoạt động.
- Bồi dưỡng những học sinh tích cực một cách có kế hoạch.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động của lớp, của từng học sinh.
- Báo cáo, tiếp nhận sự chỉ đạo của hiệu trưởng theo chế độ quy định
3 Yêu cầu:
- 1) Công tác quản lý cần dựa trên quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà nước,
quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- 2) Công tác quản lý chịu sự chỉ đạo của nhà trường, mang tính hệ thống, kế
hoạch cao.
-3. Nắm vững mục tiêu giáo dục của lớp học, bậc học, cấp học; kế hoạch,
chương trình dạy học và giáo dục.
- Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa lãnh đạo nhà trường với tập thể học sinh
Trong nhà trường, đơn vị tổ chức cơ bản để giảng dạy và học tập là lớp học.
Để quản lý trực tiếp một lớp học nhà trường cử ra những giáo viên giỏi, giàu
kinh nghiệm, nhiệt tình để làm chủ nhiệm lớp.

b. Chức năng giáo dục:


Xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện học sinh trong lớp.
Giáo viên chủ nhiệm cần tập hợp được học sinh thành một tập thể tự quản,
biết đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, phấn đấu thực hiện mục tiêu chung,
- Biên bản sinh hoạt lớp: đối với nội dung này cần có danh sách các biên
bản sinh hoạt lớp và từng biên bản sinh hoạt lớp cụ thể. Biên bản sinh hoạt lớp
cần thể hiện được một số nội dung như thời gian, địa điểm, thành phần tham gia,
những nội dung chính của buổi sinh hoạt lớp.
IV. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp
Những yêu cầu về nhân cách, đạo đức người giáo viên, kể cả những điều
cấm giáo viên không được vi phạm đã được đề cập ở nhiều văn bản pháp quy từ
luật cho đến những văn bản dưới luật.
1. Các yêu cầu về phẩm chất đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp
Nhóm yêu cầu này phản ánh tập hợp các tiêu chuẩn về đạo đức nghề
nghiệp, phẩm chất chính trị, lối sống mà người giáo viên chủ nhiệm cần phải có
được trong công tác giáo dục học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu,
nguyên lí giáo dục của Đảng, Nhà nước, đồng thời phải nắm vững quy chế, quy
định, điều lệ nhà trường phổ thông, mục tiêu giáo dục của bậc học, của khối lớp
về kế hoạch, chương trình hoạt động của nhà trường trong năm học và mỗi học kì
để vận dụng vào việc tổ chức hoạt động giáo dục học sinh.
2. Các yêu cầu về năng lực đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp
Nhóm yêu cầu này phản ánh tập hợp các tiêu chuẩn về kỹ năng tiến hành
các hoạt động giáo dục đối với lớp chủ nhiệm mà người giáo viên chủ nhiệm cần
phải có được trong công tác giáo dục học sinh. Một số yêu cầu có thể được kể ra
như sau (dẫn theo một số yêu cầu trong Nguyễn Thanh Bình (chủ biên) – Một số
vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông hiện nay):
Về việc thu thập và xử lý thông tin
Giáo viên chủ nhiệm cần phải thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp
chủ nhiệm để xây dựng hồ sơ học sinh và lập kế hoạch phát triển tập thể, Các
thông tin cần tìm hiểu là đặc điểm cá nhân, đặc điểm phát triển trí tuệ, xã hội, xúc
cảm- tình cảm và thể chất của học sinh, hoàn cảnh học sinh… Việc cập nhật
thông tin giúp giáo viên hiểu rõ đặc điểm chung về tập thể lớp chủ nhiệm cũng
như những đặc điểm riêng, nhu cầu của từng cá nhân học sinh.
Lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục
Giáo viên chủ nhiệm phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo
dục ngắn hạn khác để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, các chủ
trương, nhiệm vụ nhà trường giao cho.
Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm.
Nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm là đưa tập thể lớp từ trạng thái
này đến trạng thái phát triển cao hơn. Tập thể phát triển là tập thể ở giai đoạn có
tính tự quản cao, có dư luận tập thể lành mạnh, các mối quan hệ trong tập thể gắn
bó và mang tính nhân văn.
Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng.
Đây là một nhiệm vụ cơ bản của Giáo viên chủ nhiệm.Thông qua tổ chức
các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng để giáo dục hành vi, thói quen ứng
xử văn hóa cho học sinh về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, lao
động…đồng thời, qua đó phát triển tập thể lớp và từng học sinh.
Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột
Thực tiễn bạo lực học đường hiện nay đã và đang làm mọi người bức xúc
và để lại hậu quả nặng nề về tâm lí, tinh thần học sinh. Do đó giáo viên chủ
nhiệm cần lưu tâm ngăn ngừa và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể xảy
ra trong tập thể lớp chủ nhiệm.
Đánh giá, xếp loại học sinh
Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của học sinh về các mặt
giáo dục. Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (được ban hành theo
thông tư số 32/2009/TT-BGD&ĐT), Quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS
và THPT (được ban hành theo Thông tư số 58/2011/TT) của Bộ Giáo dục Đào
tạo quy định một số việc phải làm cụ thể của giáo viên chủ nhiệm về đánh giá kết
quả học tập và đạo đức của học sinh.
Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên cần kết hợp với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường để quản lý, giáo dục học sinh.
Cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinh
Việc cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và hồ sơ học sinh là
thực hiện yêu cầu từ góc độ quản lí hành chính. Yêu cầu này giúp giáo viên chủ
nhiệm theo dõi sự phát triển của các em và khi cần thiết có thể kịp thời can thiệp
điều chỉnh.

You might also like