L09 - Nhóm 14
L09 - Nhóm 14
Kết quả
(Nhóm tự đánh
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công giá mức độ Ký tên
đóng góp của
từng cá nhân)
Nguyễn Đặng Thủy 100%
1 2213380 Phần nội dung Ⅲ, 3.1
Bích
2 2213471 Phạm Hoàng Việt Tiến Phần mở đầu+Word 100%
3 2213500 Nguyễn Trung Tín Phần nội dung Ⅱ,2.2+Kết luận 100%
4 2213526 Lê Đức Toàn Phần nội dung Ⅱ,2.1 100%
5 2213528 Lê Phương Toàn Phần nội dung Ⅲ,3.1 100%
6 2212266 Nguyễn Thị Kim Ngọc Phần nội dung Ⅰ 100%
NHẬN XÉT,
ĐÁNH GIÁ CỦA
GIẢNG VIÊN
Họ và tên nhóm trưởng:Lê Đức Toàn, Số ĐT: Email: [email protected]
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)
Mục lụ
c
Phần Mở Đầu.......................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2.Nhiệm vụ của đề tài......................................................................................2
Phần Nội Dung.....................................................................................................3
Ⅰ. Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng...............3
1.1. Bối cảnh lịch sử.........................................................................................3
1.2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên....................................................................4
Ⅱ.Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10/1930 đến 5/1941...............5
2.1 Luận cương chính trị.................................................................................5
2.1.1. Luận cương chính trị tháng 10/1930...................................................5
2.1.2 Phong trào cách mạng 1930-1931........................................................8
2.1.3 Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức Đảng và Đại hội Đảng lần thứ I
(1935)............................................................................................................9
2.2. Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc từ tháng 3/1935 đến tháng 5/1941...........................................9
Ⅲ.Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách
mạng Dân tộc Dân Chủ Nhân dân...................................................................12
3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam........................................................12
3.1.1. Vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam..............12
3.1.2.Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước yêu
cầu, nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ mới............................................13
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương
chính trị...........................................................................................................24
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................28
Danh Mục Tài liệu tham khảo..........................................................................29
Phần Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã trải qua nhiều cuộc chiến chống quân xâm
lược, từ đó nhân dân ta đã vượt qua chặng đường đấu tranh đầy khó khăn và đã giành
được độc lập.Nhân dân ta có tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh mạnh mẽ là chìa
khóa quan trong sự thành công của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.Bên cạnh
đó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam còn có công rất lớn của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, là nhân tố chủ yếu và quan trọng nhất.Trong thời kì kháng chiến chống thực dân
Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã có phong trào yêu nước nổi lên, nhưng do
chưa có đường lối đúng đắn, lực lượng và tổ chức nên các phong trào trên lần lượt thất
bại.Trong quá trình tìm con đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường xã hội chủ nghĩa.Đó là tiền đề dẫn đến sự hình thành của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Ngay từ khi ra đời Đảng đã có cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con
đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản.Đảng lãnh đạo cách
mạng, xã hội bằng cương lĩnh chính trị được xây dựng từ chủ nghĩa Mác-Lênin và phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của đảng, phong trào cách
mạng Việt Nam mới giải quyết được vấn đề khủng hoảng và mở ra phương hướng
phát triển mới cho đất nước Việt Nam.Chính đường lối này là cơ sở cho sự tập hợp lực
lượng và sự đoàn kết thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động
để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.Trong đường
lối cách mạng đó, có chiến lược, phương pháp luôn gương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc, phát sức mạnh đoàn kết của nhân dân.Để có được đường lối đúng đắn, Đảng đã
trải qua nhiều quá trình đúc kết, đấu tranh nội bộ để đi tới khẳng định đường lối giải
phóng dân tộc và định hướng phát triển của cách mạng Việt Nam.
Để làm rõ quá trình Đảng hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, nhóm xin chọn đề tài “Quá trình hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân từ cương lĩnh chính trị đầu tiên đến chính cương Đảng Lao Động
Việt Nam” để làm bài tiểu luận.
Hai là, phân tích được nội dung của Luận cương chính trị với những ưu điểm, hạn chế
và quá trình khắc phục hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng.
Ba là, làm rõ nội dung của Chính cương Đảng Lao Động Việt Nam và sự hoàn chỉnh
đường lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.
Bốn là, làm rõ giá trị của việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân
dân đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.
Phần Nội Dung
Ⅰ. Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Lịch sử Việt Nam dưới thời thuộc địa Pháp là một giai đoạn đầy biến động và
khó khăn, khi mà chính sách thống trị và khai thác của thực dân Pháp đã để lại những
hậu quả sâu rộng trên nhiều phương diện của đất nước.Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ
nghĩa đế quốc phương Tây đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền, thúc đẩy quá trình xâm lược và nô dịch các quốc gia nhỏ yếu ở châu Á, châu
Phi và Mỹ Latinh. Việt Nam, với vị trí địa lý và chính trị quan trọng, không tránh khỏi
số phận trở thành một thuộc địa của Pháp. Chính sách thống trị và khai thác của thực
dân Pháp đã biến đổi sâu sắc xã hội Việt Nam, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội.
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, họ đã từng bước thiết lập một bộ máy
thống trị chặt chẽ chia cắt đất nước thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi
nơi có một chế độ cai trị khác nhau và biến Việt Nam thành một phần trong Liên bang
Đông Dương. Chính sách "chia để trị" của Pháp đã tạo ra sự chia rẽ giữa các vùng
miền, và hệ thống cai trị trực tiếp đã tước đi quyền tự chủ của người dân Việt Nam.
Trong suốt thời gian này, Việt Nam đã chứng kiến những thay đổi lớn về kinh
tế, xã hội, và văn hóa. Kinh tế bị khai thác một cách tàn bạo, với việc áp đặt các loại
thuế nặng nề và bắt buộc người dân phải làm việc trong các đồn điền cao su và mỏ
than dưới điều kiện khắc nghiệt. Xã hội Việt Nam cũng chịu nhiều biến đổi, với sự
xuất hiện của tầng lớp công nhân và sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Văn hóa
Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, khi mà giáo dục và văn hóa Pháp được thúc đẩy nhằm
mục đích "văn minh hóa" nhưng thực chất là để củng cố sự thống trị của họ.
Làm rõ các chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp (Chính trị,
kinh tế, văn hóa – xã hội) – dẫn chứng
Làm rõ sự chuyển biển về đặc điểm, tính chất, mâu thuẫn trong xã
hội Việt Nam
Trong bối cảnh đó, phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đã phát triển
mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị của thực dân Pháp diễn ra liên
tục, từ các cuộc khởi nghĩa vũ trang đến các phong trào đấu tranh chính trị, văn hóa.
Những người yêu nước Việt Nam đã không ngừng tìm kiếm con đường giải phóng dân
tộc, từ việc học hỏi các tư tưởng tiến bộ trên thế giới đến việc tổ chức các hội, đảng
chính trị để lãnh đạo phong trào cách mạng. Sự kiện lịch sử quan trọng như Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình thế giới và
là nguồn cảm hứng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó
có Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng đã chứng minh rằng sự đấu tranh của giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức có thể đạt được thắng lợi. Quốc tế Cộng sản, được
thành lập vào tháng 3/1919 dưới sự lãnh đạo của V.I. Lenin, đã trở thành bộ tham mưu
chiến đấu và tổ chức lãnh đạo cho phong trào cách mạng vô sản và giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, chính sách thống trị và khai thác của thực dân Pháp đã tạo ra
những điều kiện khách quan cho sự phát triển của phong trào cách mạng. Những mâu
thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt, từ đó thúc đẩy sự tỉnh thức và đấu tranh của
nhân dân. Các tổ chức cách mạng, đặc biệt là Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được thành
lập và trở thành lực lượng lãnh đạo chính trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng một xã hội mới.
Nhìn lại quá khứ, có thể thấy rằng dù phải đối mặt với những thách thức lớn
lao, nhưng tinh thần đấu tranh không khuất phục, lòng yêu nước sâu sắc và khát vọng
tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam đã không bao giờ tắt. Những bài học lịch sử từ
thời kỳ thuộc địa đã trở thành nguồn động viên quan trọng, góp phần hình thành nên
bản lĩnh và ý chí của dân tộc trong công cuộc đấu tranh và xây dựng đất nước hôm
nay. Đó là những giá trị lịch sử không thể phai mờ, là nền tảng vững chắc cho tương
lai phát triển và hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội
nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc). Hội nghị đã đưa ra một
quyết định quan trọng, đó là đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản
Đông Dương nhằm bao quát toàn bộ phong trào cách mạng tại ba nước Đông Dương
(Việt Nam, Lào, và Campuchia). Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của
Đảng. Trong hội nghị này, Đảng đã thông qua Luận cương chính trị – văn kiện quan
trọng xác định phương hướng cách mạng và chiến lược cách mạng cho toàn khu vực
Đông Dương.
Luận cương nêu rõ sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa các tầng lớp trong xã
hội Đông Dương, đặc biệt là tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Một bên là thợ thuyền,
dân cày, và các phần tử lao khổ, chịu sự bóc lột và áp bức nặng nề. Bên kia là các tầng
lớp địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là sự thống trị của thực
dân Pháp. Luận cương khẳng định rằng, chỉ khi nào tiêu diệt được địa chủ phong kiến
và thực dân đế quốc thì người dân Đông Dương mới có thể thoát khỏi cảnh khổ cực.
Luận cương xác định rằng cách mạng Đông Dương lúc đầu sẽ là cuộc "cách
mạng tư sản dân quyền", một cuộc cách mạng mang tính chất thổ địa và phản đế. Cuộc
cách mạng này có mục tiêu đấu tranh để giành quyền dân chủ và đánh đổ chế độ thực
dân đế quốc. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi, phong trào cách mạng sẽ
tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa.
Giai cấp vô sản và giai cấp nông dân được xác định là hai lực lượng chính của
cách mạng tư sản dân quyền. Trong đó, giai cấp vô sản được xem là động lực mạnh
nhất, có vai trò lãnh đạo, trong khi giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo và là
cốt lõi trong việc thực hiện cách mạng thổ địa. Đảng Cộng sản Đông Dương, với tư
cách là lực lượng lãnh đạo của giai cấp công nhân, sẽ là đội ngũ tiên phong trong cuộc
đấu tranh này.
Để đảm bảo cách mạng thắng lợi, Luận cương nhấn mạnh rằng phải có một
Đảng Cộng sản vững mạnh, có đường lối chính trị đúng đắn và được quần chúng nhân
dân ủng hộ. Đảng phải có sự liên lạc mật thiết với nhân dân, tuân thủ kỷ luật nghiêm
ngặt và tích lũy kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh.
Đảng khẳng định rằng phương pháp cách mạng chính là vũ trang bạo động.
Đảng cần chuẩn bị cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân và nông
dân, con đường vũ trang bạo động để đánh đổ chính quyền thực dân. Đến khi thời cơ
cách mạng chín muồi, Đảng sẽ lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa và
giành lấy chính quyền về tay nhân dân.
Cách mạng Đông Dương không thể tách rời khỏi cách mạng vô sản thế giới.
Giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết chặt chẽ với phong trào công nhân và cách
mạng tại các nước khác, đặc biệt là với giai cấp vô sản tại chính quốc Pháp. Đồng thời,
Đảng Cộng sản Đông Dương cũng cần liên kết mật thiết với các phong trào cách mạng
tại các thuộc địa khác trên thế giới.
Tuy Luận cương đã xác định được nhiều vấn đề quan trọng về chiến lược cách
mạng, nhưng cũng tồn tại một số hạn chế. Luận cương chưa nêu bật được mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ đó là mâu thuẫn dân tộc, không nhấn mạnh đủ
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà tập trung quá nhiều vào đấu tranh giai cấp. Điều này
là do sự ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh trong phong trào cộng sản quốc tế thời
điểm đó.
Giai đoạn từ 1929 đến 1933, khi Liên Xô đạt được nhiều thành tựu trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì các nước tư bản đang phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn diện, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt.
Khủng hoảng kinh tế này cũng lan rộng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước
thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Thực dân Pháp, để bù đắp thiệt hại kinh tế, đã
tăng cường bóc lột và đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong nước, đặc biệt là cuộc khởi
nghĩa Yên Bái vào tháng 2/1930. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và thực dân
Pháp trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.
Trong năm 1930, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân nổ ra liên
tiếp. Từ tháng 1 đến tháng 4/1930, hàng loạt các cuộc bãi công của công nhân tại các
nhà máy lớn như nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), đồn điền
Phú Riềng, nhà máy dệt Nam Định,… đã diễn ra. Các phong trào đấu tranh của nông
dân cũng diễn ra mạnh mẽ tại các tỉnh miền Bắc như Hà Nam, Thái Bình, và đặc biệt
là tại Nghệ An, Hà Tĩnh.
Từ tháng 5/1930, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ hơn, trở thành cao
trào cách mạng. Chỉ trong tháng 5, đã có 16 cuộc bãi công của công nhân, 34 cuộc
biểu tình của nông dân, và hàng loạt các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân
khác. Từ tháng 9/1930, phong trào cách mạng đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là tại hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh, nơi mà nhân dân đã giành được chính quyền và thành lập Xô
viết Nghệ Tĩnh. Các cuộc biểu tình lớn của nông dân tại Hưng Nguyên ngày 12/9/1930
bị thực dân Pháp đàn áp dã man, nhưng điều đó chỉ càng làm tăng thêm tinh thần đấu
tranh của quần chúng nhân dân.
Tuy phong trào cách mạng 1930-1931 đã phải chịu nhiều tổn thất, nhưng nó đã
chứng minh được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và để lại nhiều bài
học quý báu về việc kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: phản đế và phản phong.
2.1.3 Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức Đảng và Đại hội Đảng lần thứ I (1935)
Từ đầu năm 1931, thực dân Pháp bắt đầu tăng cường các biện pháp đàn áp khốc
liệt nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng và tổ chức Đảng. Hàng nghìn chiến sĩ cộng
sản và người yêu nước bị bắt giam và đày ra các nhà tù, làm suy yếu lực lượng cách
mạng. Tuy nhiên, trong các nhà tù, các chiến sĩ cộng sản vẫn duy trì tinh thần chiến
đấu mạnh mẽ, tổ chức nhiều cuộc đấu tranh và bí mật thành lập các chi bộ Đảng để
tiếp tục lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh.
Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp tại Ma Cao (Trung
Quốc), đánh dấu sự phục hồi của hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
quần chúng sau những tổn thất nặng nề. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: củng cố
và phát triển Đảng, đẩy mạnh vận động quần chúng, và mở rộng tuyên truyền chống
đế quốc, chống chiến tranh. Tuy Đại hội chưa đặt nặng nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
nhưng nó đã tạo tiền đề cho cao trào cách mạng mới.
2.2. Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc từ tháng 3/1935 đến tháng 5/1941
Giai đoạn 3/1935-11/1939
+ Những chủ trương và quan điểm của Đảng (Nội dung Hội nghị
Trung ương 11/1939; Hội nghị Trung ương 11/1940; Hội nghị Trung ương
05/1941)
+ Tiểu kết giai đoạn 11/1939-05/1941 đã giải quyết được hạn chế nào trong
Luận cương?
Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc từ tháng 3/1935 đến tháng 5/1941 là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử
cách mạng Việt Nam thời kỳ chống thực dân Pháp. Trong thời kì này, Đảng đã từng
bước xây dựng, bổ sung và hoàn thiện đường lối cách mạng nhằm giải phóng dân tộc
khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Thứ nhất, Đảng nhận ra những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930
và từng bước khắc phục để phù hợp với bối cảnh thực tế của Việt Nam. Đồng thời, các
nghị quyết và chỉ thị đã được ban hành để định hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 đã xác định
cơ bản các vấn đề về chiến lược cách mạng, về cơ bản thống nhất với nội dung của
Chính cương, sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930. Tuy vậy,
hạn chế của Luận cương là đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam
thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dẫn tộc, mà nặng nề đấu tranh giai
cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến lược liên minh giai cấp trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc và tay sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do
nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư
tưởng tả khuynh, nhấn mạng một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế
Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời kì ấy. Những hạn chế trên của Đảng còn
tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.
Để lãnh đạo phong trào dân chủ 1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Trong văn
kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10/1936), Đảng nêu quan điểm: “Cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng
điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy
có chỗ không xác đáng”. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu
tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước” 1. Đây là
những quan điểm nhận thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng tại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930) và lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương đó là nhìn
nhận lại hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông
Dương.
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (11/1939) tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) phân tích tình hình và chỉ rõ
mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc Pháp và chống tất cả ách ngoại xâm để giành
lấy độc lập cho Đông Dương, cùng với chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng
ruộng đất”, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động;
chống tô cao, lãi nặng. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương với lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư
sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản
xứ, trung và tiểu địa chủ. Hội nghị đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan, đánh dấu sự
chuyển hướng quan trọng lịch sử, đó chính là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu mặc dù vẫn chưa thật sự dứt khoát.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước chủ trì
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 6, trang 152
chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn cấp bách cần giải
quyết đó chính là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc phát xít Nhật – Pháp. Để
thực hiện nhiệm vụ ấy, Hội nghị tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay
bằng khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, hướng tới người cày có
ruộng. Từ quan điểm trên, Hội nghị quyết định mỗi nước Đông Dương một mặt trận
riêng, vừa thực hiện đoàn kết từng dân tộc vừa đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù
chung; đồng thời đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc để thu hút mọi người
dân yêu nước tham gia cứu Tổ quốc. Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng
đấu tranh được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939 nhằm giải quyết mục tiêu số một của
cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu
ấy. Do đó, Hội nghị đã khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị
tháng 10/1930.
Thứ hai, Đảng đã phát triển lực lượng, bổ sung và tăng cường lãnh đạo các cấp,
đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương.
Để hình thành đường lối cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của xã
hội thuộc địa Việt Nam, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua nhiều giai đoạn đấu tranh cách mạng kiên
cường. Đảng vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đứng dậy khởi
nghĩa chống đế quốc thực dân và tay sai, vừa phải chống các thứ thuế nặng cũng như
các tàn dư gây khó khăn của xã hội phong kiến. Do đó, việc tuyển thêm các lực lượng
bổ sung vào Đảng để thực hiện các chiến lược cách mạng là điều khách quan cần thiết.
Bên cạnh đó, việc tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là nhiều lần lập mới, bổ
sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng.2
Trong suốt thời kì cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930-1945, Đảng
không những trưởng thành về mặt số lượng, mà còn cả về chất lượng, đặc biệt là sự
lãnh đạo sáng suốt cũng như các động lực đấu tranh nội bộ. Đảng đã vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX – một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến, xác định đúng kẻ thù và nhiệm vụ chiến lược. Đảng
đã thực hiện “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bolshevik để khắc phục những quan
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (01/09/2021), Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng
giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945.
niệm sai lầm và đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc. Cuộc cách
mạng lãnh đạo bởi Đảng đã dần có các đặc điểm Bolshevik: chủ trương lật đổ chế độ
đế quốc thực dân và thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua cách mạng bạo lực,
các quyết định của Đảng được thảo luận dân chủ nhưng sau khi đã quyết định thì tất cả
các thành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt, Đảng coi mình là đội tiên phong của giai
cấp vô sản, có nhiệm vụ lãnh đạo và hướng dẫn cuộc đấu tranh cách mạng.3
Ⅲ.Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách
mạng Dân tộc Dân Chủ Nhân dân.
3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
(đặc điểm thế giới và trong nước1950 -1951)
3.1.1. Vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhờ Đảng, nước ta đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong lịch sử, với Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo cuộc cách mạng từ sau thành công của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến tận ngày nay. Đảng chú trọng công tác xây
dựng, chỉnh đốn để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.
Sự hình thành và phát triển của Đảng phù hợp xu thế phát triển của lịch sử dân
tộc. Đảng không có lợi ích nào ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của người dân lao
động, của dân tộc ta và lợi ích của nhân dân tiến bộ thế giới 4. Điều này là cơ sở để
người dân tin tưởng, ủng hộ và chăm lo xây dựng Đảng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành quả to lớn,
Đảng ta đã gặp phải một số sai lầm, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã
hội vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX. Nguyên nhân chính là do: “Bệnh chủ quan,
duy ý chí,lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý xã hội, kinh tế, không chấp hành
nguyên tắc và đường lối của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa hữu
khuynh”.5 Nguyên nhân là để khắc phục yếu kém, khuyết điểm trên, từ đầu năm 1986,
3
Wikipedia, Bolshevik. Truy cập từ: Bolshevik – Wikipedia tiếng Việt
4
https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/loi-bac-day-nam-xua/ngoai-loi-ich-cua-to-quoc-cua-nhan-dan-dang-ta-
khong-co-loi-ich-gi-khac-547483
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H.2006,
tr.360, tr.364-365.
Đảng đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng và thực hiện đường
lối mới để ngày càng vững mạnh và phát triển ổn định đất nước,
3.1.2.Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước yêu cầu,
nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ mới
Quá trình đổi mới ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, CNXH và con
đường đi lên CNXH được xác định rõ ràng hơn bao giờ hết. Đưa đất nước vào thời kỳ
hiện đại hóa và công nghiệp hoá theo hướng XHCN. Tuy nhiên, ảnh hưởng của mặt
trái nền kinh tế thị trường và biến động quốc tế nhanh chóng, khó lường đã khiến một
số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, phai nhạt lý tưởng cách mạng. Công tác
chỉnh đốn Đảng còn hạn chế, khiến niềm tin của quần chúng giảm và ảnh hưởng đến
vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong thời đại mới, ĐCS Việt Nam them phần tự giác nhận thức và sâu sắc hơn
trách nhiệm lãnh đạo của mình. Đồng thời thể hiện sự chú trọng và thường xuyên xây
dựng phương thức cầm quyền theo hướng "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”6. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan được đề ra theo quy luật phát triển của
cách mạng cũng như từ sự phát triển nội tại của Đảng cầm quyền trong giai đoạn mới
của cách mạng Việt Nam. Để nâng cao năng lực cầm quyền, ĐCS Việt Nam xây dựng
các nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, xây dựng nội dung và lý luận cầm quyền của Đảng một cách khoa học.
Đây là yêu cầu cơ bản, quan trọng hàng đầu hiện nay. Theo đó, lý luận khoa
học thể hiện ở nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới
đã có nhiều đổi thay, song chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là một học thuyết khoa học về
quy luật vận động, phát triển của thiên nhiên, xã hội và loài người, ĐCS Việt Nam đã
và đang kiên trì, vận dụng một cách sáng tạo, đồng thời bổ sung, kế thừa và phát triển
giá trị lý luận khoa học vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Đảng ta cũng vận
dụng, tiếp thu có tính chọn lọc những tinh hoa tư tưởng trên khắp thế giới sao cho phù
hợp với nước ta.
6
Lê Hiệp(2024), Quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, văn hiến và anh hùng, truy cập
từ<https://thanhnien.vn/quyet-tam-xay-dung-dat-nuoc-giau-manh-van-minh-van-hien-va-anh-hung-
185240131225301627.htm.>
Đồng thời, cần phản bác lại các luận điệu sai trái, phản động, thù địch,… các
phần tử nhân danh “đổi mới” xuyên tạc những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Vì lý do đó, “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên
ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh
đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.7Do đó, cần có đường lối, chính sách phù
hợp, đúng đắn, có tính khoa học và xuất phát từ thực tế.
Trong thời điểm hiện nay, ĐCS Việt Nam xác định: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô
hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển
đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”8
Đây là nhiệm vụ quan trọng giúp Đảng hoạch định sách lược và phương
hướng lãnh đạo đất nước trong tình hình mới.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
CTQG-ST, H.2016, tr.201, tr.170, tr.170, tr.160, tr.169.
Đây là điều kiện cần liên quan đến việc xây dựng và phát triển, đòi hỏi Đảng
phải tiếp tục củng cố, phát huy và hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Đảng phải đảm bảo
và rộng mở đối với quyền tự do của quần chúng và trong nội bộ Đảng. Quan hệ giữa
Đảng với quần chúng phải luôn được bảo vệ, củng cố. Đồng thời, dân chủ cũng là một
nguyên tắc trong quá trình phát triển nội tại của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng ta
hiểu rằng: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân
chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”. Tính chất trên
được biểu hiện rõ trên hai khía cạnh: dân chủ trong sinh hoạt đảng và dân chủ
trong phương thức hoạt động của Đảng. Dân chủ gắn liền với kỷ cương, pháp chế.
Trong quá trình Đảng lãnh đạo đất nước, Đảng cần lắng nghe tâm tư. nắm bắt tâm lý,
tình cảm và nguyện vọng của người dân từ đó có hành động phù hợp “ý Đảng – lòng
dân”. Có thể nói, phát huy dân chủ là giải pháp tích cực giúp Đảng củng cố và phát
triển về mặt tổ chức và tăng cường về mặt trí tuệ. Vì lý do đó, việc tận dụng mặt tích
cực, lợi thế cũng như hạn chế nguy cơ và vượt qua thách thức do toàn cầu hoá mang
lại phụ thuộc vào trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính thông qua thực hành dân
chủ mà sức mạnh của ĐCS Việt Nam, trong đó có sức mạnh trí tuệ được nhân lên bội
phần. Những cuộc trưng cầu dân ý rộng rãi, tích cực thảo luận và đóng góp ý kiến về
các vấn đề quốc gia có ý nghĩa tích cực, quan trọng, góp phần xây dựng và nâng cao
tính đúng đắn trong các quyết định quan trọng của Đảng. Việc phát huy dân chủ góp
phần đảm bảo tính đúng đắn, nâng cao hiệu quả của các quyết định ở tầm vĩ mô.
Mặt khác, việc thực hiện lãnh đạo một cách dân chủ cũng là biện pháp tích cực
hữu hiệu giúp tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội.
Chính vì nhận thức sâu sắc vai trò và ý nghĩa quan trọng của dân chủ đối với
một Đảng, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trong Đảng thực hành dân
chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất
để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”9
Thứ ba, xây dựng Đảng theo Hiến pháp và pháp luật.
9
https://tcnn.vn/news/detail/47538/Thuong-xuyen-nghiem-chinh-tu-phe-binh-va-phe-binh-trong-xay-dung-
chinh-don-Dang-theo-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.html.
Hiến pháp và pháp luật là thể chế hoá quan điểm chủ trương, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với ý chí, nguyện vọng của dân, nhằm hoàn
thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Hiến pháp và pháp luật thể hiện ý chí và quyền lực
của nhân dân, khẳng định quyền lực của nhân dân là tối thượng. Nghĩa là không ai có
thể đứng trên pháp luật hoặc đứng ngoài pháp luật, không thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm theo quy định của pháp luật.
Do đó, ĐCS Việt Nam phải chấp hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Theo
đó, các tổ chức đảng và các đảng viên phải luôn là tấm gương sáng trong việc tuân thủ
và thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Lãnh đạo theo pháp luật cũng bảo đảm rằng quyền
lực của nhân dân không bị biến thành quyền lực riêng của cá nhân hoặc một nhóm
người có đặc quyền, đặc lợi.
Có thể phát biểu rằng, cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và cầm
quyền theo pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau. Việc bảo đảm, vận dụng và phát
huy hiệu quả của ba phương thức nói trên sẽ tạo nên sức mạnh tổ chức, sự hiệu quả
trong hoạt động của ĐCS Việt Nam với tư cách là đảng lãnh đạo trong thời kỳ
đổi mới.
Chương I
Thế giới và Việt Nam
Thứ nhất, sau thế chiến hai, cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư
bản trở nên nghiêm trọng, Liên Xô phát triển mạnh, phong trào dân chủ đẩy
lên cao. Thế giới chia làm hai phe: phe dân chủ chống đế quốc do Liên
Xô lãnh đạo, phe đế quốc phản dân chủ do Hoa Kỳ cầm đầu. Phe dân chủ ngày
càng mạnh. Hoa Kỳ và các đế quốc khác chuẩn bị thế chiến ba và mở rộng các
cuộc chiến tranh xâm lược.
Thứ hai, nhiệm vụ trung tâm lúc này là chiến đấu vì hoà bình. Dưới
sự chỉ huy của Liên Xô đứng đầu là thống chế Xtalin, phe dân chủ mở rộng
thành mặt trận hoà bình thế giới. Phong trào hoà bình sâu rộng, Đế quốc tạo ra
chiến tranh thứ ba nghĩa là tự sát.
Thứ ba, trong thế chiến hai, chủ nghĩa phát xít bị đánh bại bởi chủ
nghĩa xã hội, cách mạng dân chủ nhân dân thành công và lan rộng ở nhiều
nước, tách những nước thuộc địa ra khỏi hệ thống chủ nghĩa đế quốc.
Thứ tư, một đặc điểm của thế giới sau chiến tranh thứ hai là phong trào
giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa đã làm rung chuyển hệ thống chủ nghĩa
đế quốc.
Thứ năm, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải
phóng dân tộc, vì gìn giữ hoà bình và dân chủ trên thế giới. Nhờ những thành
công của phong trào dân chủ trên thế giới và nhờ sự cố gắng của cả dân tộc,
cách mạng Việt Nam nhất định sẽ thành công.
Chương II
Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam
I - Xã hội Việt Nam
Thứ nhất, trước thời Pháp thuộc, Việt Nam là một xã hội phong kiến có
tính chất kinh tế tự nhiên với nền tảng là nông nghiệp. Ruộng đất thuộc quyền
sở hữu của triều đình, quan lại và địa chủ. Khi bọn phong kiến nước ngoài cai
trị nông dân ta còn bị bóc lột nặng nề hơn. Họ cần được giải phóng. Vì vậy
nông dân đã khởi nghĩa. Nhưng do điều kiện kinh tế, xã hội không thuận
lợi, đồng thời thiếu vắng giai cấp tiền tiến lãnh đạo, do đó không thay đổi
được tính chất của chế độ phong kiến.
Thứ hai, từ khi Pháp xâm chiếm, Việt Nam trở thành thị trường, nguồn
nguyễn liệu độc chiếm, một nơi cho vay lấy lãi suất và là căn cứ đóng quân
của Pháp. Sau thế chiến thứ nhất, vì chính sách "đặc biệt khai thác thuộc địa",
kỹ nghệ khai mỏ và kỹ nghệ nhẹ được Pháp đưa vào nước ta. Từ đó, công
nhân Việt Nam thành hình và trưởng thành một cách nhanh chóng. Tư bản
Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản Pháp đè nén cho nên không phát triển
được nhiều.
Chính sách thuộc địa bảo thủ, hẹp hòi, khiến nước ta rơi vào tình trạng
hoàn toàn lệ thuộc vào Pháp. Đồng thời gây ra sự kìm hãm phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam. Nó kết hợp bóc lột tư bản, áp bức phong kiến và
nửa phong kiến, làm cho nhân dân khốn khổ .
Trong thế chiến hai, phát xít Nhật xâm chiếm Việt Nam. Nhân dân Việt
Nam ngày càng khốn khổ hơn. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Các căn cứ du
kích phát triển và chính quyền nhân dân hình thành ở khu giải phóng Việt Bắc.
Thứ ba, nǎm 1945, phát xít Nhật đầu hàng. Việt Nam tổng khởi
nghĩa thành công. Khai sinh nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam. Các cải cách
dân chủ được thực hiện. Việt Nam bước vào con đường dân chủ nhân dân,
nhưng Pháp quay lại xâm chiếm. Cuộc cách mạng toàn diện và trường kỳ
kháng chiến của dân tộc ta bắt đầu.
Hiện nay xã hội Việt Nam gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một
phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất ấy đấu tranh lẫn nhau. Nhưng
chủ yếu là mâu thuẫn giữa tính chất thuộc địa và tính chất dân chủ nhân dân.
Mâu thuẫn đó đang được giải quyết qua cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam
chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
II - Cách Mạng Việt Nam
Thứ nhất, hiện nay Việt Nam phải xử lý mâu thuẫn giữa chế độ dân
chủ nhân dân và thế lực phản động, làm cho chế độ đó ngày càng phát triển
tiến lên chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa đế quốc xâm lược được xác định là
thế lực thù địch chính. Cách mạng nước ta có hai đối tượng. Đối tượng
chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, đặc biệt là đế quốc Pháp và bọn can
thiệp Hoa Kỳ. Đối tượng phụ là phong kiến, đặc biệt là phong kiến phản
động.
Thứ hai, nhiệm vụ cơ bản hiện nay là đánh đổ bọn đế quốc xâm
lược, khôi phục độc lập tự do thống nhất cho Tổ quốc, xoá bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng dân chủ nhân dân. Ba nhiệm vụ trên khǎng khít với nhau. Song nhiệm
vụ chính được xác định là giải phóng đất nước.
Thứ ba, động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là: công nhân,
nông dân, tiểu tư sản trí thức, tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc; ngoài
ra những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Giải quyết nhiệm vụ
trên cần lấyngười dân làm động lực, công nông và trí thức làm nền móng
và lãnh đạo bởi giai cấp công nhân, hiện nay cách mạng Việt Nam là một
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Thứ tư, thứ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam chắc
chắn sẽ đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do giai cấp công nhân
lãnh đạo, đoàn kết chặt chẽ với nông dân và lao động trí óc, đồng
thời dưới sự ủng hộ của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, cách mạng
Việt Nam phải đi trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là một con đường dài, trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ
nhất, hoàn thành việc giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, xoá bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện người cày có
ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn
thứ ba, tạo tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội. Ba giai đoạn ấy có liên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong giai đoạn thứ nhất, mũi nhọn chĩa vào đế quốc xâm
lược. Khai sinh ra Mặt trận dân tộc thống nhất, kháng chiến chống xâm
lược và các hạng Việt gian. Đồng thời phải chăm lo đời sống cho nhân dân,
để nhân dân tham hái kháng chiến.
Đến giai đoạn hai, mũi nhọn chĩa vào lực lượng phong kiến. Đảng
tập trung lực lượng xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để
thực hiện người cày có ruộng, thúc đẩy việc công nghiệp hoá; hoàn
thiện chính quyền dân chủ nhân dân. Song, vẫn tiếp tục chống lại đế quốc,
bảo vệ chủ quyền độc lập của Tổ quốc. Đến giai đoạn ba, với trọng tâm
là phát triển cơ sở xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Chương III
Chính sách của Đảng lao động Việt Nam
Đảng Lao động hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong
kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam
độc lập và thống nhất, giàu mạnh và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Lao động Việt
Nam thực hiện chính sách đẩy mạnh kháng chiến đến thành công và đặt cơ sở kiến
thiết nước nhà.
1. Kháng chiến
Một là,Việt Nam kiên quyết kháng chiến đánh thực dân Pháp và bọn can thiệp
Hoa Kỳ dành độc lập và thống nhất Đất nước.
Hai là,Cuộc kháng chiến của Việt Nam là chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của
nó là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng
phản công.
Ba là, Nhiệm vụ trọng tâm: hoàn thành kế hoạch tổng phản công và tổng phản
công thắng lợi với phương châm."Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".10
Đồng thời phải liên tục bồi dưỡng lực lượng kháng chiến về tất cả các mặt.
Bốn là,Phải nắm vững phương châm chiến lược của các mặt chính trị, kinh tế,
vǎn hoá phải nhằm mục tiêu làm cho quân sự chiến thắng. Đồng thời, đấu tranh quân
sự phải kết hợp với chính trị, kinh tế, …Phối hợp tác chiến trước mặt giặc với
việc đánh du kích.
2. Chính quyền nhân dân
Một là,Chính quyền của Việt Nam là chính quyền dân chủ của nhân dân. Nội
dung chính quyền ấy là nhân dân dân chủ chuyên chính.
Hai là,Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh giai
cấp công-nông-trí làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ba là,Dân chủ tập trung trở thành nguyên tắc tổ chức của chính quyền. Với
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính là Cơ quan chính quyền ở địa phương.
Quốc hội và Hội đồng Chính phủ là cơ quan chính quyền tối cao ở trung ương .
3. Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết tất cả mọi đảng phái, đoàn thể và
mọi nhân sĩ yêu nước, cùng kháng chiến kiến quốc. Nó ủng hộ chính quyền bằng
cách động viên và giáo dục nhân dân làm theo mệnh lệnh chính quyền cũng như đề
đạt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân với chính quyền.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công-nông-trí làm nòng cốt
và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ba là, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất
theo nguyên tắc:
10
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ii/chinh-cuong-
dang-lao-dong-viet-nam-1448
- Đoàn kết thành thực: các bộ phận giúp đỡ lẫn nhau và phê bình lẫn nhau một
cách thân ái để cùng nhau tiến bộ.
- Thống nhất hành động: các bộ phận thương lượng, thoả thuận với nhau để
thống nhất hành động theo một chương trình chung. Song mỗi đoàn thể trong Mặt
trận vẫn có chương trình hoạt động tối đa của mình và độc lập về tổ chức.
- Hợp tác lâu dài: đoàn kết trong trường kỳ kháng chiến và trong công cuộc
kiến quốc sau khi kháng chiến thắng lợi.
4. Quân đội
Một là, Quân đội là quân đội nhân dân, do dân và vì dân. Nó có tính chất: hiện
đại, dân tộc và dân chủ.
Hai là, Trong kháng chiến, nguồn bổ sung chủ yếu là bộ đội địa phương và
dân quân du kích và nguồn trang bị chủ yếu là tiền tuyến.
Kỷ luật nghiêm, nhưng là kỷ luật dân chủ và tự giác. Vừa tác chiến, vừa tiến
hành công tác chính trị làm cho trên dưới một lòng, quân dân nhất trí và làm tinh
thần lính địch tan rã.
5. Kinh tế tài chính
Một là, Đảm bảo quyền lợi công và tư, của tư bản và lao động, tǎng gia sản
xuất để cung cấp cho kháng chiến và cải thiện dân sinh, đặc biệt là cải thiện đời sống
của nhân dân lao động.
Hai là, Trong sản xuất, chú trọng phát triển nông nghiệp nhất. Về công nghiệp
nước ta chú trọng phát triển thủ công nghiệp và tiểu công nghệ, đồng thời xây dựng
kỹ nghệ, phát triển thương nghiệp. Phát triển nền tài chính theo nguyên tắc: tài chính
dựa vào sản xuất và đẩy mạnh sản xuất. Với chính sách:
- Tǎng gia sản xuất nhằm tǎng thu, tiết kiệm nhằm giảm chi.
- Áp dụng chế độ đóng góp dân chủ.
Việc gây dựng cơ sở kinh tế nhà nước và phát triển kinh tế hợp tác xã được
chú trọng. Đồng thời giúp đỡ tư nhân trong sản xuất. Đặc biệt cần khuyến khích,
giúp đỡ tư sản dân tộc và hướng dẫn họ kinh doanh.
Ba là, Mở mang kinh tế quốc dân đi đôi với kháng chiến, phải tuỳ lúc, tuỳ nơi
mà bao vây và phá hoại kinh tế của địch một cách có kế hoạch. thủ tiêu kinh tế thực
dân của địch bằng cách giải phóng đến đâu thì ta tịch thu tài sản của địch đến đó,.
6. Cải cách ruộng đất
Một là, Trong kháng chiến chính sách chủ yếu là giảm tô, giảm tức. Ngoài ra
thi hành những cải cách khác như: quy định chế độ lĩnh canh, tạm cấp ruộng đất cho
dân cày nghèo, chia lại công điền, sử dụng hợp lý ruộng vắng chủ và ruộng bỏ
hoang, v.v..
Hai là, Giúp thiện đời sống nông dân, đồng thời xúc tiến tǎng gia sản xuất, bảo
đảm cung cấp và đoàn kết toàn dân để kháng chiến.
7. Vǎn hoá giáo dục
Một là, Đào tạo con người và cán bộ để đẩy mạnh kháng chiến kiến quốc, bài
trừ di tích vǎn hoá giáo dục thực dân và phong kiến, phát triển nền vǎn hoá giáo dục
có tính chất: về hình thức thì dân tộc, về nội dung thì khoa học, về đối tượng thì đại
chúng.
Hai là, Chính sách vǎn hoá giáo dục hiện nay là:
- Xóa mù chữ, cải cách giáo dục, mở trường.
- Phát triển khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật.
- Phát triển vǎn hoá dân tộc, học tập vǎn hoá Liên Xô, Trung Quốc và các
nước dân chủ nhân dân khác.
- Phát triển vǎn hoá dân tộc thiểu số.
8. Đối với tôn giáo
Tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng tôn giáo. Những kẻ lợi dụng tôn giáo
phản quốc cần nghiêm trị.
9. Chính sách dân tộc
Một là, Các dân tộc đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, để kháng chiến và
kiến quốc chúng ta cần đoàn kết giúp đỡ nhau; bài trừ hành động gây thù hằn, chống
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chia rẽ giữa các dân tộc.
Hai là, Không xúc phạm tín ngưỡng, phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu
số làm cho họ tự giác cải cách tuỳ theo điều kiện của họ.
Ba là, Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn
hoá.
10. Đối với vùng tạm bị chiếm
Một là, vùng tạm bị chiếm là hậu phương của địch. Công tác vùng đó được coi
là phần trọng yếu của công tác kháng chiến.
Hai là, Chính sách: phối hợp đấu tranh với vùng tự do, củng cố chính quyền
cách mạng, đoàn kết, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá nguỵ quyền, nguỵ quân.
Ba là, đối với những người trong hàng ngũ của địch thì trừng trị bọn cầm đầu
nếu không hối cải, khoan hồng với những kẻ lầm lỡ, biết ǎn nǎn.
Bốn là, khu mới giải phóng đoàn kết, an dân.
11. Ngoại giao
Một là, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia và
cùng nhau bảo vệ hoà bình dân chủ thế giới.
Hai là, đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ nhân dân khác và
tích cực ủng hộ phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa. Mở rộng ngoại
giao; giao thiệp thân thiện với chính phủ các nước tôn trọng chủ quyền Việt Nam,
đặt quan hệ ngoại giao theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho hai bên.
12. Đối với Miên, Lào
Một là, đoàn kết chặt chẽ với Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc ấy
kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng các dân tộc Đông Dương.
Hai là, đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với Miên, Lào
trong kháng chiến và sau kháng chiến.
13. Đối với ngoại kiều
Một là, tất cả ngoại kiều tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được quyền cư trú,
đảm bảo sinh mệnh, tài sản và được làm ǎn tự do trên nước ta.
Hai là, kiều dân thuộc các nước dân chủ nhân dân được hưởng quyền lợi và
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, nếu Chính phủ nước họ thoả thuận với Chính phủ
Việt Nam và bản than họ muốn.
Đối với Hoa kiều:
- Hoa kiều vùng tự do được hưởng tất cả quyền lợi của công dân Việt Nam,
đồng thời vận động họ tình nguyện làm nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
- Đối với Hoa kiều vùng tạm bị chiếm, cần vận động họtham gia, ủng hộ
kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Ba là, các người ngoại quốc vì đấu tranh cho hoà bình, bị các chính phủ phản
động truy nã mà lánh nạn vào nước ta thì được ta nhiệt liệt bảo vệ và giúp đỡ.
14. Đấu tranh cho hoà bình và dân chủ thế giới
Một là, đấu tranh vì hoà bình thế giới là nhiệm vụ của Việt Nam. Kháng chiến
chống đế quốc xâm lược là một phương pháp của Việt Nam nhằm thực hiện nhiệm
vụ ấy.
Hai là, phối hợp cuộc kháng chiến của Việt Nam với các cuộc đấu tranh của
nhân dân trên khắp thế giới.
15. Thi đua ái quốc
Một là, phong trào thi đua là một phong trào quần chúng. Thi đua là hoàn
thành nhiệm vụ đã đinh.
Hai là, lúc này kế hoạch thi đua nhằm diệt giặc ngoại xâm, thúc đẩy sản xuất,
cùng tiêu diệt giặc dốt. Bộ đội, nông dân, công xưởng cùng lớp học là phần
đông chỗ thi đua chủ yếu.
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương
chính trị.
Nội dung Bổ sung: Chính cương đã bổ sung những nội dung nào?
Nội dung Hoàn chỉnh Cương lĩnh => Luận cương => Chính cương
Cương lĩnh và Luận cương (1930): Chủ yếu tập trung vào cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ, trong đó nhiệm vụ chính là lật đổ chế độ thực dân Pháp và phong kiến,
xóa bỏ những giai cấp bóc lột để xây dựng một xã hội không có áp bức , để giành độc
lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (1951): Bổ sung và mở rộng mục tiêu
cách mạng, kết hợp cả kháng chiến giành độc lập và xây dựng chế độ mới. Đảng chủ
trương xây dựng một nhà nước dân chủ nhân dân, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để giải quyết mâu thuẫn giữa chế đồ dân chủ nhân dân với các thể lực phản động
chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Chính cương này không chỉ dừng ở nhiệm vụ
cách mạng dân tộc mà còn định hướng tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với bối cảnh quốc tế và yêu cầu phát triển của đất nước sau khi giành độc lập.
Hai là, liên minh giai cấp và lực lượng cách mạng
Cương lĩnh và Luận cương (1930): Xác định giai cấp công nhân là lực lượng
lãnh đạo chủ chốt, liên minh với giai cấp nông dân. Tuy nhiên, Luận cương nhấn mạnh
đấu tranh giai cấp mạnh mẽ, trong đó giai cấp tư sản dân tộc chưa được đánh giá cao.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (1951): Mở rộng khối liên minh dân tộc
và giai cấp, trong đó giai cấp công nhân tiếp tục là lực lượng lãnh đạo, nhưng đồng
thời mở rộng liên minh với tầng lớp trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhấn mạnh
việc đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để chống thực dân, xây dựng chế độ mới. Điều
này cho thấy sự điều chỉnh hợp lý với tình hình thực tiễn, khi vai trò của trí thức và tư
sản dân tộc được công nhận là lực lượng đóng góp quan trọng cho cuộc kháng chiến
và xây dựng đất nước.
Cương lĩnh và Luận cương (1930): Chủ trương bạo lực cách mạng, chiến đấu bạo
động để giành chính quyền , đấu tranh vũ trang là con đường chủ yếu để giành lại
chính quyền. Trong đó công nhân và nông dân cần phải lãnh đạo cuộc cách mạng và
xây dựng lực lượng vũ trang để giành chính quyền.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (1951): Phát triển chiến lược kháng chiến
toàn dân, toàn diện và trường kỳ, vừa đấu tranh vũ trang, vừa kết hợp với đấu tranh
chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Đẩy mạnh việc phát triển thực lực, tăng cường
sức mạnh hậu phương. Thực hiện cải cách dân chủ, phát đồng quần chúng nông dân
triệt để giảm tô góp phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi.
Bốn là, những điều chỉnh về phương pháp và mục tiêu dài hạn
Cương lĩnh và Luận cương (1930): Nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là giành độc
lập dân tộc và giải phóng nông dân khỏi áp bức phong kiến, sau đó là xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (1951): Không chỉ dừng lại ở việc
giành độc lập, mà còn đề ra những nhiệm vụ cụ thể hơn về xây dựng nhà nước dân chủ
nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa và xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến,
hoàn chỉnh chế đồ dân chủ nhân dân, tiến tới xây dựng vật chất cho chủ nghĩa xã
hội.Sự bổ sung này phản ánh tầm nhìn dài hạn hơn, chuẩn bị cho giai đoạn sau kháng
chiến.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được đánh giá là có tính chiến lược rõ
ràng hơn so với Cương lĩnh và Luận cương 1930. Nó không chỉ đáp ứng yêu cầu cấp
bách của thời kỳ kháng chiến mà còn mở ra hướng đi cho sự phát triển của đất nước
sau chiến thắng. Điều này giúp Đảng vừa lãnh đạo kháng chiến thành công, vừa đặt
nền móng cho sự phát triển trong giai đoạn hòa bình.
Mặc dù có nhiều điều chỉnh phù hợp, nhưng Chính cương 1951 vẫn đứng trước
thách thức trong việc triển khai các chính sách kinh tế - xã hội khi điều kiện cơ sở vật
chất và nhân lực còn nhiều hạn chế. Những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội vẫn còn
tồn tại, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa giai cấp công nhân và tư
sản dân tộc. Việc tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội, vẫn còn mang tính định hướng chung chung, thiếu cơ chế tổ chức thực
hiện cụ thể.
Cùng với đó, việc duy trì khối đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là trong giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng là thách thức lớn mà Đảng cần phải giải quyết.
Cương Lĩnh và Luận Cương về cơ bản chiến lược cách mạng đã thống nhất với
Chính Cương (1930). Tuy nhiên Luận Cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu,
không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách
mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng
rãi.
Bảy là, tổng kết
Sự bổ sung và hoàn chỉnh của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (1951)
so với Cương lĩnh và Luận cương 1930 thể hiện sự trưởng thành về lý luận và thực
tiễn của Đảng. Chính cương này không chỉ giải quyết vấn đề độc lập dân tộc mà còn
mở ra con đường xây dựng xã hội mới, đánh dấu một bước phát triển mới trong tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự bổ sung và hoàn chỉnh so với Cương lĩnh và
Luận cương 1930 đã giúp Đảng ta đưa ra những định hướng đúng đắn, đưa cách mạng
Việt Nam đến thắng lợi.
Sự ra đời của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam vào năm 1951 đánh dấu
một bước tiến mới trong nhận thức và lãnh đạo cách mạng, khẳng định vị trí tiên
phong của Đảng trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ. Điều này là kết quả của
quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh Việt Nam, đồng thời
đáp ứng nhu cầu cấp thiết của tình hình trong nước và quốc tế.
Những bài học rút ra từ việc hoàn thiện đường lối cách mạng trong giai đoạn
này không chỉ có giá trị lịch sử sâu sắc mà còn là nền tảng cho những thành công sau
này của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(dành cho bậc đại học,cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin,tư tưởng Hồ Chí
Minh).NXB:Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, NXB:Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB: Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
NXB:Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, Hà Nội.
7. Lê Hiệp (01/02/2024), Quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, văn hiến
và anh hùng, truy cập từ <https://thanhnien.vn/quyet-tam-xay-dung-dat-nuoc-giau-
manh-van-minh-van-hien-va-anh-hung-185240131225301627.htm>.
8. Ths.Dương Thùy Dung (27/05/2020), Thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh., truy cập từ <.
https://tcnn.vn/news/detail/47538/Thuong-xuyen-nghiem-chinh-tu-phe-binh-va-phe-
binh-trong-xay-dung-chinh-don-Dang-theo-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.html>.
9. Ths.Đào Duy Quát (2021), Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến
lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945, truy cập từ <: Sự
hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc
của Đảng thời kỳ 1930-1945 (dangcongsan.vn)>.