0% found this document useful (0 votes)
7 views10 pages

PLĐC BT XLTH

Tài liệu mô tả các tình huống pháp lý liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là tội giết người và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nó phân tích các yếu tố cấu thành tội giết người và sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Cuối cùng, tài liệu đưa ra ví dụ về việc chia di sản thừa kế và tính toán lương làm thêm giờ của một nhân viên.
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
7 views10 pages

PLĐC BT XLTH

Tài liệu mô tả các tình huống pháp lý liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là tội giết người và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nó phân tích các yếu tố cấu thành tội giết người và sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Cuối cùng, tài liệu đưa ra ví dụ về việc chia di sản thừa kế và tính toán lương làm thêm giờ của một nhân viên.
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
You are on page 1/ 10

Tình huống

Ngày 06/11/2018, Dung đến nhà chị Thu (Đông Anh, Hà Nội). Tại
đây, Dung xin được bế cháu Minh, chị Thu đồng ý. Lấy cớ nghe điện thoại,
Dung bế cháu Minh xuống bếp và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang
theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu. Sợ bị phát hiện, Dung lấy mũ đậy vết đâm
lại, nhưng máu chảy quá nhiều, cháu khóc thét lên nên bị mọi người phát
hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu, cháu Minh (40 ngày tuổi) qua đời. Biết chị
Dung (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) không có bệnh về thần kinh, chưa
có tiền án, là một người làm ruộng.
Yêu cầu:
1. Anh, chị hãy chứng minh hành vi của chị Dung là hành vi vi
phạm pháp luật. Xác định loại vi phạm.
Hành vi của chị Dung là hành vi vi phạm pháp luật vì Dung bế cháu
Minh xuống bếp và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh
thóp đầu cháu. Sợ bị phát hiện, Dung lấy mũ đậy vết đâm lại dẫn đến việc cháu
Minh qua đời. Đây là loại vi phạm hình sự cụ thể là Tội giết người (Điều 123
Bộ luật Hình sự năm 2015).
2. Anh, chị hãy chứng minh hành vi của chị Dung đủ yếu tố cấu
thành Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015).
- Chủ thể: chị Dung (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) không có bệnh
về thần kinh, chưa có tiền án, là một người làm ruộng. → Do đó, Chị Dung là
người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015,
không có bệnh về thần kinh.
- Khách thể: xâm phạm đến tính mạng của bé Minh
- Mặt khách quan: việc chị Dung dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm
mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu dẫn đến việc cháu Minh qua đời.
- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp, chị Dung có đầy đủ nhận thức rằng
hành vi của mình là trái với qui định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng
đến tính mạng của bé Minh nhưng vẫn mặc nhiên để điều đó xảy ra dẫn đến bé
Minh chết.
Kết luận: Hành vi của chị Dung đủ yếu tố cấu thành Tội giết người
(Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Cho tình huống:
Quý (23 tuổi) vay của chị dâu là Hạnh 1,9 tỷ đồng để lấy vốn làm ăn.
Do làm ăn thua lỗ, hạn cho vay đã hết và chị Hạnh ráo riết đòi nợ mà
Quý không có tiền trả, Quý đã dùng dao giết chết chị Hạnh để không
phải trả nợ. Rất may do phát hiện kịp thời, chị Hạnh được đưa đi cấp
cứu không tử vong nhưng chị bị liệt toàn thân không có khả năng lao
động. Được biết chồng chị đã qua đời trước đó, một mình chị nuôi hai
đứa con nhỏ 10 tuổi và 8 tuổi.
Yêu cầu:
1. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Có điểm gì khác với bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng?
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát
sinh khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định
ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Những điểm khác với bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng:
a) Về căn cứ phát sinh
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Được xây dựng nên bởi các quy phạm điều chỉnh chế định hợp
đồng.
+ Chỉ tồn tại khi một hợp đồng tồn tại, trách nhiệm này phát sinh khi
xuất hiện sự vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp
đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Phát sinh khi tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý
hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không
liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây
thiệt hại và người bị thiệt hại.
b) Về căn cứ xác định trách nhiệm
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc.
+ Chỉ cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã có thể phát sinh trách
nhiệm dân sự.
+ Bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm dù đã có hay chưa có
thiệt hại xảy ra khi bên kia bị vi phạm hợp đồng.
+ Hai bên có thể dự liệu và thỏa thuận trước về những trường hợp
thiệt hại do vi phạm hợp đồng và cách thức chịu trách nhiệm như
bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
gồm: hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại thực tế, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế, có lỗi.
c) Về hành vi vi phạm
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Hành vi này là hành vi vi phạm những cam kết cụ thể, những
nghĩa vụ mà hai bên tự ràng buộc nhau trong hợp đồng.Tức là hành
vi này chưa chắc đã vi phạm các quy định pháp luật chung mà chỉ
vi phạm “pháp luật” thiết lập giữa những người tham gia giao kết
hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Hành vi này là hành vi vi phạm những quy định của pháp luật nói
chung, những quy định do nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại.Vì
vậy đó có thể là hành vi vi phạm những quy định của pháp luật
chuyên ngành khácnhư hình sự, hành chính, kinh tế…
d) Về phương thức thực hiện
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường hay phạt vi phạm kể
từ khi giao kết hợp đồng (thể hiện bản chất thỏa thuận của hợp
đồng).
+ Việc bồi thường thiệt hại không giải phóng người có nghĩa vụ
khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời, cả thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
+ Điều quan trọng là các bên trong quan hệ trách nhiệm dân sự có
thể không biết nhau và không biết trước việc sẽ xảy ra để làm phát
sinh quan hệ trách nhiệm dân sự, do đókhông thể thỏa thuận trước
bất cứ một việc gì.
+ Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Thông thường sẽ làm chấm dứt nghĩa
vụ.
e) Về yếu tố lỗi
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Việc phân biệt lỗi vô ý và cố ý cũng có ý nghĩa nhưng bên cạnh
đó thì người có hành vi vi phạm có thể chịu trách nhiệm ngay cả
khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật có quy định.
f) Về thời điểm phát sinh trách nhiệm
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực và có bên vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+Kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại.
g) Về tính liên đới chịu trách nhiệm
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ liên đới chịu
trách nhiệm nếu khi giao kết hợp đồng họ có thỏa thuận trước về
vấn đề chịu trách nhiệm liên đới.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ đều phải
chịu trách nhiệm liên đới theo các quy định cụ thể của pháp luật
dân sự.
2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là:
- Thứ nhất, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi của con người gây ra.
- Thứ hai, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại như thế nào?
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là:
- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên
có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng
tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức
bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên thiệt
hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt
hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế thiệt hại do chính mình.
4. Những thiệt hại mà anh Quý phải bồi thường cho chị Hạnh bao
gồm những gì?
Những thiệt hại mà anh Quý phải bồi thường cho chị Hạnh là:
- Thiệt hại về tinh thần và sức khỏe
- Thiệt hại về tổn hao tài sản do anh Quý không trả nợ
5. Giả sử chị Hạnh không may qua đời, anh Quý có phải bồi thường
gì cho gia đình chị Hạnh không?
- Giả sử chị Hạnh không may mất anh Quý vẫn phải bồi thường cho
gia đình chị Hạnh do đã làm tổn hao đến tài sản, tinh thần và tính
mạng chị Hạnh. Đồng thời có thể chịu án Hình sự do cố ý giết
người
Yêu cầu:
1. Ông An và bà Thái là vợ chồng có tài sản chung là 780 triệu đồng, có
hai con chung là Minh và Nga. Năm 2018 bà Thái chết, Minh và Nga
về sống với ông bà ngoại. Năm 2019, ông An lấy vợ mới là bà Yến có
con chung là Phương và tuyên bố tài sản của ông là tài sản chung với
bà Yến (thỏa thuận có lập bằng văn bản). Đầu năm 2020, ông An chết
không để lại di chúc. Năm 2021, Yến qua đời không để lại di chúc.
Chia di sản thừa kế trong trường hợp này.
Bài làm:
- Ông An và bà Thái có tài sản chung 780 triệu đồng.
- Bà Thái chết thì ông An có quyền hưởng ½ tài sản chung và 1/5 di
sản của bà Thái để lại:
390 triệu đồng + 78 triệu đồng=468 triệu.
- Hai người con chung là Minh và Nga, ông bà ngoại mỗi người được
78 triệu đồng.
- Ông An kết hôn với bà Yến , tuyên bố tài sản là của chung là 468
triệu đồng.
- Ông An chết, bà Yến có quyền hưởng ½ tài sản chung và ¼ di sản ông
An để lại:
234 triệu đồng + 58,5 triệu đồng = 292,5 triệu đồng.
- Hai con của vợ trước Minh và Nga, và con con chung với vợ sau
Phương, mỗi người có quyền hưởng 58,5 triệu đồng từ di sản của ông
An.
- Bà Yến chết, Phương hưởng 292,5 triệu đồng từ di sản của mẹ.
 Tổng kết:
- Minh và Nga, mỗi người được hưởng 136,5 triệu đồng từ di sản của bà
Thái và ông An.
- Phương hưởng 351 triệu đồng từ di sản của ông An và bà Yến.

Anh Nguyễn Đức N ký HĐLĐ với doanh nghiệp H, trong HĐLĐ,


anh N có thỏa thuận với doanh nghiệp H các nội dung sau đây:
Tiền lương chính hàng tháng là 6tr240 ngàn, mức lương được tính
26 ngày trên một tháng, một ngày làm việc 8 tiếng, từ 7h đến 11h,
13h đến 17h, tuần làm 6 ngày từ thứ 2 đến thứ 7, chủ nhật là ngày
nghỉ.
Trong tháng 01/2021, Anh N làm việc thêm như sau:
Thứ 6 ngày 01/01/2021 làm thêm 4h (14h đến 16h) và từ (22h đến
24h).Thứ 2 ngày 04/01/2021 làm thêm 3h (18h đến 20h); (22h-23h)
Chủ nhật 10/01/2021 làm thêm 4h (8h đến 10h) và 22h đến 24h.
Tính số tiền làm thêm và số lương của anh A các giờ, ngày trên.
Bài làm
- Lương một ngày của anh N là : 240.000 vnd
- Lương một giờ là 30.000 vnd
- Số tiền làm thêm ngày thứ 6 (14h-16h) là: 30.000 x 2 x 300%= 180 000
vnd
- Số tiền làm thêm ngày thứ 6 (22h-24h) là: 30.000 x 2 x 390%= 234 000
vnd
- Số tiền làm thêm ngày thứ 2 (18h-20h) là: 30 000 x 2 x 150% = 90 000
vnd
- Số tiền làm thêm ngày thứ 2 (22h-23h) là: 30 000 x 1 x 210% = 63 000
vnd
- Số tiền làm thên chủ nhật (ngày nghỉ) (8h-10h): 30 000 x 2 x 200% = 120
000 vnd
- Số tiền làm thêm chủ nhật (22h- 24h): 30 000 x 2 x 270%= 162 000 vnd
Chia di sản thừa kế trong những trường hợp sau:
 Anh Tân có vợ là chị Hạnh có tài sản chung là 1,8 tỷ đồng. Họ có 3
con là Minh (sinh năm1983 đã đi làm và có thu nhập cao), Nam
(sinh năm 1989) và Tâm (sinh năm 1993). Do cuộcsống chung
không hạnh phúc Tân và Hạnh đã ly thân. Nam là đứa con hư
hỏng đã có lần đánhông Tân gây thương tích và bị Tòa án kết án về
hành vi này. Năm 2020, Tân bị tai nạn xe máy.Trước khi chết trong
bệnh viện, Tân có để lại di chúc miệng (hợp pháp) là để lại toàn bộ
tài sảncủa mình cho bác ruột là Kiên, Hạnh đã kiện ra Tòa yêu cầu
không chia tài sản thừa kế cho ôngKiên.
Hãy chia di sản thừa kế trong trường hợp này.
Bài làm:
- Chia theo di chúc Tài sản chung của 2 vợ chồng anh Tân và chị Hạnh
là 1,8 tỉ đồng nên tài sản của anh Tân là 900 triệu đồng.
- Theo di chúc miệng, ông Kiên được hưởng 900 triệu đồng nhưng Tâm
là đứa conchưa thành niên ( thời điểm ông Tân qua đời (2006), Tâm
mới 13 tuổi ) nên sẽ được hưởng 2/3 tài sản thừa kế theo quy định của
pháp luật:
900:4x2/3= 150 (triệu đồng).
 Vậy ông Kiên được hưởng 750 triệu đồng, Tâm được hưởng
150 triệu đồng.
- Chia theo pháp luật Do ông Tân sau khi lập di chúc miệng năm 2006
đã không chết đến tháng 10/2007 ông mới chết nên di chúc miệng bị
hủy bỏ.
- Tại thời điểm ông chết vào tháng 10/2007, ông không để lại di chúc
nên tài sản của ông được chia theo pháp luật.
- Tài sản đó được chia cho vợ và 3 người con. Nhưng trước đó do Nam
(con trai ông) đã bị kết án vì hành vi tấn công gây thương tích
chongười để lại di sản là ông Tân nên Nam không được quyền hưởng
di sản.
 Vậy tài sản chỉ được chia cho vợ và 2 người con là Minh và
Tâm, mỗi người được hưởng: 900:3= 300 triệu đồng
A. Tình huống
Câu 1. Trần Thanh A (1990) là hàng xóm của anh Thái Minh N và
chị Cao Minh T. Tuy anh N đã có vợ con, nhưng đã nhiều lần lén
lút qua lại và có quan hệ tình cảm yêu đương với chị T, Thanh A
cũng biết chuyện này. Vào lúc 21h ngày 10/2/2022, Thanh A tình cờ
gặp anh N và chị T vào khách sạn trên chợ huyện, nên đã dùng
điện thoại chụp hình lại. Chiều hôm đó, Thanh A đưa những hình
ảnh trên cho anh N xem, sau đó buộc anh N đưa cho mình 70 triệu
đồng, nếu không đưa thì Thanh A sẽ gửi những hình ảnh này cho
vợ của anh N và đăng tải lên mạng xã hội.
Bốn ngày sau đó, anh N gom góp tiền và gửi cho anh A được 60
triệu. Lúc này Thanh A buộc anh N trong 5 ngày nữa phải gửi thêm
40 triệu là tròn 100 triệu. Do không xoay sở được số tiền, anh N đã
trình báo sự việc cho Công an.
Anh/chị hãy xác định tội danh với hành vi trên của A và giải thích
tại sao?
- Tội danh cho hành vi của anh A là tội cưỡng đoạt tài sản tại khoản
1 và 2d theo Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017
quy định như sau:
“Điều 170: Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp
tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 03 năm đến 10 năm:
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng;”
Vì:
- Anh A đã uy hiếp tinh thần anh N nhằm chiếm đoạt tài sản
→ Vi phạm khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ
sung 2017
- Anh A đã đưa những hình ảnh của anh N và chị T cho anh N xem,
sau đó buộc anh N đưa cho mình 70 triệu đồng, nếu không đưa thì
anh A sẽ gửi những hình ảnh này cho vợ của anh N và đăng tải lên
mạng xã hội.
- Anh N gom góp tiền và gửi cho anh A được 60 triệu. Lúc này
Thanh A buộc anh N trong 5 ngày nữa phải gửi thêm 40 triệu là
tròn 100 triệu.
→ Vi phạm khoản 2d Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi
bổ sung 2017
Câu 2. Nguyễn Văn A (2000), là công nhân xưởng chế biến hải sản.
Do tình hình dịch Covid 19, nên công ty của A đang làm việc tạm
thời cho công nhân nghỉ việc. Thông qua bạn bè giới thiệu, A mua
được 2 bộ trang phục công an để đi chơi ra oai.
Do không đi làm và hết tiền tiêu sài, 11h ngày 12/2/2022 A mặc
trang phục công an đến một shop quần áo do chị B làm chủ trên địa
bàn huyện, nói rằng kiểm tra chất lượng và hàng giả, hàng nhái. Đi
một vòng cửa hàng và kiểm tra, sau đó A nói cửa hàng bán quá
nhiều hàng giả và đề nghị chị B về trụ sở Công an để làm việc. Tuy
cửa hàng của chị B kinh doanh hợp pháp nhưng do không am hiểu
pháp luật nên chị B tỏ ra sợ hãi. Nắm bắt được tâm lý này, A bảo
chị B đưa mình 60 triệu thì sẽ coi như không có gì và tha cho B.
Chị B ngay lập tức đưa hết số tiền mặt đang có là 30 triệu đồng và
chuyển khoản thêm cho B qua thẻ ngân hàng 30 triệu đồng nữa.
Sau khi nhận được tiền, A bỏ đi. Chiều cùng ngày, sau khi nghe kể
lại toàn bộ vụ việc, chồng chị B là anh K đã lập tức báo Công an địa
phương, 2 ngày sau A bị bắt và đưa về trụ sở làm việc.
Anh/chị hãy xác định tội danh với hành vi trên của A và giải thích
tại sao?
- Tội danh với hành vi của anh A là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại
Điều 174 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Vì:
- Anh A đã giả danh công an đi một vòng cửa hàng chị B và kiểm
tra, sau đó A nói cửa hàng bán quá nhiều hàng giả và đề nghị chị B
về trụ sở Công an để làm việc. Nắm bắt được tâm lý sợ hãi do
không am hiểu pháp luật của chị B, A bảo chị B đưa mình 60 triệu
thì sẽ coi như không có gì và tha cho B.
- Chị B ngay lập tức đưa hết số tiền mặt đang có là 30 triệu đồng và
chuyển khoản thêm cho B qua thẻ ngân hàng 30 triệu đồng nữa.

⇨ Anh A đã vi phạm khoản 2c và 2e tại Điều 174 Bộ Luật Hình Sự


Sau khi nhận được tiền, A bỏ đi.

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được quy định như sau:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm:
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;”

You might also like